Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
Mục "Prunella Vulgaris" trong "Thần Nông Bách Thư" có ghi: "Phương pháp điều trị dựa trên khí hậu của cây này lại có một ý nghĩa khác. Mọi loài thực vật đều sinh trưởng vào mùa xuân và phát triển vào mùa hè, nhưng loại thảo dược này lại héo úa vào mùa hè. Điều này là do bản chất của nó là âm thuần túy, và nó được kích thích bởi năng lượng của tiểu dương. Một khi nó gặp dương đầy đủ, năng lượng âm của nó sẽ cạn kiệt, và nó sẽ chín và héo úa. Do đó, bất kỳ bệnh tật nào do dương dư thừa gây ra, được điều trị bằng loại thảo dược này, sẽ héo úa và chết. Đây là nguyên lý kỳ diệu của sự tương tác giữa trời và đất. Tất cả các loại thảo dược khác sinh trưởng và tàn lụi theo mùa đều áp dụng theo cách tương tự." "Điều trị dựa trên khí hậu của cây" đề cập đến các đặc tính của cây thuốc chịu ảnh hưởng của khí hậu mùa xuân ấm áp, mùa hè nóng bức, mùa thu mát mẻ và mùa đông lạnh giá trong quá trình sinh trưởng của nó. Về điều này, Lý Thời Trân khi giải thích ý nghĩa của "sương mùa đông" đã lưu ý: "Khi âm mạnh, sương sẽ ngưng tụ thành sương. Sương có thể giết chết, trong khi sương có thể nuôi dưỡng. Tính chất của chúng thay đổi theo thời gian."
Công hiệu của thảo dược thay đổi theo thời gian, trong đó sương là ví dụ điển hình nhất. "Chính Hòa Kinh Sử Chính Lôi Bối Dược Thư" trích lời Trần Thương Kỳ thời Đường, trong mục "sương": "Thu lộ ngọt dịu, không độc. Khi rơi trên ngọn trăm loại thảo dược, nó có thể chữa bách bệnh, giải khát, làm cơ thể nhẹ nhõm, giảm đói, làm mềm cơ. Nó cũng có thể chuyển hóa thành bột mica. Có thể thu thập bằng cách phủi sương buổi sáng trước khi khô." Trần Gia Mặc thời Minh viết trong "Bản Thảo Mạnh Tuyền": "Phủ sương lên thảo dược vào thời điểm thu phân, có tính chất hạ xuống, thanh nhiệt. Người mắc bệnh lao, suy dinh dưỡng và các bệnh mãn tính nên dùng." Vương Ngang thời nhà Thanh viết trong "Bản thảo bối diêu": "Sương giết người, sương nuôi dưỡng, tính chất thay đổi theo thời gian. Sương có thể giải nhiệt, nên sự xuất hiện của Bạch lộ đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Hạ nhiệt. Sốt rét luôn do nhiệt gây ra, vì vậy thuốc chống sốt rét nên được uống sau khi phơi nắng qua đêm."
Rõ ràng, câu nói "thiên biến vạn hóa" ám chỉ tính chất và tác dụng của một vật thể chịu ảnh hưởng của mùa. Trong phần mô tả về sương ở trên, từ cụm từ "Thu phân, quét cỏ, bản chất mùa thu của nó sẽ giáng xuống và trong vắt", ta có thể thấy sương mang đặc tính của mùa thu, mát mẻ và sảng khoái. Lời giải thích về chức năng của sương và dấu hiệu cụ thể cho thấy sương xuất hiện vào mùa thu này thể hiện quan niệm của các nhà thảo dược học rằng "thiên biến vạn hóa". Ngoài ra, "Thuyết Dược Sư Dư Đoàn Truyện" còn viết: "Nước mưa đầu xuân là năng lượng sinh trưởng và phát triển của mùa xuân, nên có thể dùng để làm thuốc trị chứng trung khí bất túc và khí thanh ứ. Thời xưa, nếu phụ nữ hiếm muộn, vợ chồng sẽ uống một chén vào ngày này, sau khi giao hợp sẽ có thai, điều này cũng có nghĩa là đó là nguồn gốc của vạn vật." "Nước tuyết tháng 12 là nước cực hàn, nên có thể dùng để chữa các bệnh trên (như dịch bệnh do thời tiết nóng bức, động kinh, trẻ con khóc, sốt cao đột ngột sau khi uống rượu, v.v.)." Dựa trên nguyên lý chung "thiên biến vạn hóa" trong y học cổ truyền, Lý Thời Trân đặc biệt bổ sung bài thuốc "nước tiết khí". Sách còn chép: "Một năm có 24 tiết, mỗi tiết kéo dài nửa tháng. Mùi vị của nước cũng thay đổi theo. Đây là sự tương tác giữa khí hậu trời đất, không bị giới hạn bởi lãnh thổ." "Nước tích trữ vào đầu xuân và Thanh minh gọi là nước thánh." "Thích hợp để làm thuốc, bột chữa phong tỳ hư, và rượu thuốc, có thể bảo quản lâu dài." "Nước trong các ngày Hàn Lộ, Đông Chí, Tiểu Hàn, Đại Hàn, và Lễ hội." "Thích hợp để làm thuốc bổ ngũ tạng, trị đờm, hỏa, độc, rượu nấu chín, có tác dụng tương tự như nước tuyết." "Nước giếng lúc năm giờ sáng ngày đầu thu" "Mỗi người, già trẻ, lớn bé, đều uống một cốc, có thể chữa sốt rét, kiết lỵ và các bệnh khác." "Nước trưa ngày Tết Nguyên Đán" "Thích hợp để làm thuốc trị sốt rét, kiết lỵ, lở loét, vết thương, các loại thuốc trừ sâu." "Nước vào thời điểm ngũ cốc đầy, ngũ cốc trong tai, và sương trắng" "có độc. Dễ bị hỏng khi dùng để làm thuốc, làm giấm và các loại thực phẩm khác. Uống nước này cũng có thể gây ra các bệnh về tỳ vị và dạ dày."
Điều này không chỉ đúng với sương, sương muối và nước do thiên nhiên tạo ra, mà còn đúng với thực vật. Câu tục ngữ "Tháng Ba ngải cứu nở, tháng Tư ngải cứu nở, tháng Năm ngải cứu làm củi" thể hiện rõ nguyên lý này. Một ví dụ khác là "Hoa cúc xuân nở, hè nở, thu nở, dưỡng đất. Trải qua năng lượng của ba mùa, chúng hấp thụ tinh hoa của trời đất, sở hữu tinh hoa kim loại độc đáo có thể chế ngự phong mộc, trở thành loại thảo dược thiết yếu để trừ phong". "Rau dền gai nở hoa và kết trái vào tháng Ba của mùa Thu, hấp thụ năng lượng thanh mát, dịu nhẹ của kim loại mùa Thu, từ đó thanh nhiệt, trừ tà." Tất cả đều dựa trên nguyên lý này. Về lý do của việc này, Trương Chí Thông từng nói: "Cỏ héo vào mùa hè, ngải cứu thu hoạch vào mùa hè, sự phát triển của thông, và sự phát triển của cám và lúa mì đều tiếp nhận năng lượng của lửa và đất và có thể cải tạo đất; hoa cúc nở vào mùa thu và ve sầu hót vào mùa thu tiếp nhận năng lượng của kim loại và có thể điều khiển gió; những loài sống sót qua mùa đông tiếp nhận năng lượng của nước lạnh và có thể thanh nhiệt; những loài nảy mầm trước mùa xuân có bản chất của gỗ và có thể sinh trưởng và thăng hoa. Đây là cách chúng phản ứng với năng lượng của trời đất trong bốn mùa và mỗi loài đều có sự kiểm soát và biến đổi riêng."