Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
1. Quan sát hình dáng của các chi
Teo cơ và chân tay gầy guộc thường gặp ở bệnh liệt, gút,... chủ yếu do tỳ vị hư hoặc khí huyết hư.
Tay chân trở nên yếu ớt, bất lực, tay không thể cầm nắm đồ vật, chân không thể nghỉ ngơi. Điều này thường do nhiệt phổi làm tổn thương dịch cơ thể, hoặc do nhiệt ẩm xâm nhập, hoặc do tỳ vị suy yếu, hoặc do gan thận suy yếu; hoặc do ứ trệ máu, dẫn đến gân và tĩnh mạch bị giãn và vô dụng.
Sưng và biến dạng khớp, khó gập duỗi, kèm theo đau nhức và nặng nề là triệu chứng của hội chứng Tật. Hội chứng này do phong hàn ẩm ứ trệ kinh lạc, hoặc do thấp khớp tích tụ lâu ngày chuyển thành nhiệt. Nếu cẳng chân và cẳng chân gầy, nhưng khớp gối sưng to như đầu gối hạc, màu da không đổi, thì gọi là "đầu gối hạc phong", thường do lạnh ẩm kéo dài, dẫn đến khí huyết hư.
Khi khuỷu tay thẳng, nếu góc valgus giữa cánh tay trên và cẳng tay lớn hơn 5-15 độ thì được gọi là "elbow valgus"; nếu góc valgus nhỏ hơn 5-15 độ thì được gọi là "elbow varus". Khi hai bàn chân khép lại ở tư thế thẳng đứng, đầu gối không thể khép lại và cong ra ngoài, khiến hai chân tạo thành hình chữ "O". Trường hợp này được gọi là "knee varum" hay "chân chữ "O" hoặc "chân vòng kiềng".
Khi hai đầu gối khép sát vào nhau ở tư thế thẳng đứng, bắp chân sẽ nghiêng ra ngoài, các khớp mắt cá chân không thể khép lại với nhau và các chi dưới tạo thành hình chữ "X", được gọi là "đầu gối vẹo" hoặc chân hình chữ "X".
Vị trí khép cố định của mắt cá chân được gọi là "bàn chân vẹo trong", và vị trí khép cố định được gọi là "bàn chân vẹo ngoài". Tật vẹo ở khuỷu tay và đầu gối, hoặc vẹo ở mắt cá chân, đều do thiếu hụt bẩm sinh hoặc suy dinh dưỡng sau sinh, thận khí không đủ và phát triển kém.
Các tĩnh mạch xanh nổi lên ở bắp chân, trông giống như giun đất, được gọi là "các tĩnh mạch xanh lộ ra ở chi dưới". Chúng thường do lạnh và ẩm xâm nhập vào các tĩnh mạch bên và gây ứ máu.
Sưng chân tay, tạo ra vết lõm khi ấn vào, là một phần của phù toàn thân. Phù xảy ra do suy giảm chức năng phổi, lách và thận, dẫn đến tình trạng giữ nước và ẩm ướt.
Chiều dài chi trên và chi dưới không bằng nhau, một bên dài hơn đáng kể so với bên kia. Điều này thường gặp trong trường hợp bẩm sinh thiếu chất hoặc trong giai đoạn phát triển, khi nhiệt bệnh làm tổn thương dịch cơ thể hoặc khí huyết không đủ, dẫn đến suy dinh dưỡng ở chi và phát triển xương bất thường, hoặc do co rút gân và tĩnh mạch hoặc do chấn thương cắt cụt chi.
2. Quan sát chuyển động của các chi
Cứng chân tay là triệu chứng gân mạch bị co cứng, khó duỗi, khó gập. Nguyên nhân thường do các tác nhân gây bệnh bên ngoài như phong, hàn, ẩm, nhiệt xâm nhập, dẫn đến kinh lạc kém hoặc tinh huyết hư, gân mạch kém nuôi dưỡng.
Cứng chân tay, tức là các cơ ở chân tay duỗi thẳng cứng đờ không thể gập lại, hoặc các khớp chân tay cứng đờ không thể gập lại, thường gặp trong các bệnh uốn ván, động kinh, ngộ độc, v.v. Nguyên nhân chủ yếu là do các tác nhân gây bệnh bên ngoài làm tắc nghẽn kinh lạc hoặc nội can phong.
Co giật chân tay, tức là chân tay thường xuyên co giật không tự chủ, liên tục, là dấu hiệu của phong vận, gặp trong các bệnh uốn ván, co giật, động kinh, ngộ độc, v.v.
Run tay chân, tức là run rẩy hoặc run rẩy ở tay hoặc chân, là tình trạng không kiểm soát được và thường do âm huyết hư, gân mạch suy yếu, hoặc uống rượu quá độ. Chúng cũng có thể là dấu hiệu báo trước của phong.
Nhu động tay chân là chuyển động chậm chạp của tay chân, giống như giun bò. Tình trạng này thường do tỳ vị khí hư hoặc âm hư gây ra phong.
Chạm vào giường bằng quần áo, và duỗi thẳng các sợi chỉ trong không khí, tức là bệnh nhân hôn mê nghiêm trọng duỗi tay ra chạm vào quần áo, chăn và mép giường, hoặc duỗi tay ra trong không khí, các ngón tay lúc thì mở ra lúc thì khép lại, giống như duỗi thẳng các sợi chỉ, là dấu hiệu của tình trạng bất tỉnh.
Liệt chi nghĩa là các chi không thể cử động theo ý muốn. Tùy thuộc vào vị trí liệt, có liệt nửa người và liệt hai chi dưới. Liệt nửa người là không có khả năng cử động các chi ở một bên theo ý muốn, thường thấy trong di chứng của đột quỵ. Liệt hai chi dưới là tình trạng tủy sống bị cắt ngang, làm liệt các chi dưới phần mà nó kiểm soát. Nguyên nhân chủ yếu là do chấn thương hoặc đờm và ứ máu chặn các kinh mạch và suy dinh dưỡng gân. Theo độ căng của cơ, có liệt cứng và liệt mềm. Liệt cứng nghĩa là các chi cứng và không thể cử động theo ý muốn do tắc nghẽn kinh mạch và khí; liệt mềm nghĩa là các cơ yếu và không thể cử động theo ý muốn do suy dinh dưỡng và giãn gân.