Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
1. Chống chỉ định của châm cứu
Châm cứu, còn được gọi là châm cứu nội bì, bao gồm việc đặt kim chuyên dụng hoặc kim dạng sợi vào bên trong hoặc dưới da tại các huyệt đạo cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Cần lưu ý những điều sau khi sử dụng phương pháp này.
(1) Kim tiêm trong da phải được khử trùng dưới áp suất cao. Trước khi bảo quản, cần ngâm kim trong cồn 75% và dùng nhíp vô trùng để gắp kim ra. Đảm bảo vùng da tiêm được khử trùng nghiêm ngặt.
(2) Các huyệt đạo phải được cố định và không được cản trở chuyển động của chân tay.
(3) Sau khi châm cứu, nếu bệnh nhân cảm thấy ngứa ran hoặc khó cử động chân tay thì phải rút kim ra và cấy lại.
(4) Thời gian châm cứu phụ thuộc vào tình trạng bệnh nhân, khí hậu, thể trạng và các yếu tố khác. Thông thường có thể chôn từ 3 đến 5 ngày, mùa đông có thể kéo dài khoảng một tuần. Mùa hè nóng nực, ra nhiều mồ hôi, thời gian châm cứu nên rút ngắn để phòng ngừa nhiễm trùng.
(5) Châm cứu thường không thích hợp cho các khớp, ngực và bụng.
(6) Trước khi châm cứu, cần kiểm tra kỹ thân kim để tránh tai nạn gãy kim.
2. Những điều kiêng kỵ khi rạch huyệt đạo
Liệu pháp rạch huyệt, còn được gọi là liệu pháp hút mỡ, bao gồm việc phẫu thuật cắt da tại các huyệt đạo hoặc vùng cụ thể trên cơ thể để loại bỏ một lượng nhỏ mỡ dưới da. Phương pháp này nhằm mục đích tăng cường sức đề kháng của cơ thể với bệnh tật và cải thiện chức năng. Cần lưu ý những điều sau đây khi sử dụng liệu pháp này.
(1) Những bệnh nhân mắc bệnh xuất huyết, bệnh tim nặng, bệnh nhân nguy kịch, bệnh nhân sốt cao kéo dài, phù nề hoặc nhiễm trùng tại chỗ không thích hợp để điều trị phẫu thuật.
(2) Đối với người già, người yếu, phụ nữ, trẻ em và người bệnh, nên kích thích nhẹ nhàng trong quá trình rạch để phòng ngừa say kim. Nếu bị say kim, phải dừng phẫu thuật và điều trị thích hợp.
(3) Thuốc gây mê không được tiêm quá nhiều hoặc quá sâu để tránh ảnh hưởng đến hiệu quả phẫu thuật.
(4) Đường rạch không nên quá sâu để tránh làm tổn thương các mạch máu sâu, dây thần kinh hoặc dây chằng.
(5) Phản ứng sau phẫu thuật có thể bao gồm khó chịu toàn thân, đau khớp và chán ăn. Những phản ứng này thường xảy ra trong vòng ba ngày sau phẫu thuật và có thể kéo dài từ một đến hai ngày. Phản ứng sau phẫu thuật bàn chân thường xảy ra trong vòng hai tuần, nhưng cũng có thể xảy ra từ hai tuần đến một tháng sau phẫu thuật, kéo dài từ một đến sáu ngày. Những phản ứng này thường tự khỏi trong vòng vài ngày. Các trường hợp nặng có thể được điều trị triệu chứng.
(6) Thực hiện nghiêm ngặt quy trình vô trùng. Không để vết thương tiếp xúc với nước trong vòng 5 đến 7 ngày sau phẫu thuật để tránh nhiễm trùng.
(7) Bạn cần nghỉ ngơi vài ngày sau phẫu thuật và chú ý đến chế độ ăn uống, nhiệt độ, v.v.
3. Những điều kiêng kỵ khi châm cứu
Cấy chỉ huyệt, còn được gọi là liệu pháp chôn hoặc liệu pháp catgut, bao gồm việc cấy chỉ catgut (đôi khi bằng lụa, thép không gỉ hoặc thuốc) vào các huyệt đạo để kéo dài tác dụng, từ đó ngăn ngừa và điều trị bệnh. Phương pháp này, xuất hiện vào cuối những năm 1960, đã được chứng minh là hiệu quả trong điều trị một số bệnh mãn tính và khó chữa thông qua quan sát lâm sàng rộng rãi. Tuy nhiên, cần lưu ý những biện pháp phòng ngừa sau khi sử dụng phương pháp này.
(1) Sau khi cắm huyệt, cơ thể có thể có một số phản ứng nhất định, cần chú ý phân biệt phản ứng bình thường và phản ứng bất thường.
1. Phản ứng bình thường
Phản ứng tại chỗ: Do kích ứng và tổn thương, cũng như kích ứng từ chỉ catgut (protein lạ), phản ứng viêm vô trùng tại chỗ, bao gồm đỏ, sưng, đau và nóng, có thể xảy ra trong vòng 1-5 ngày. Một số trường hợp gặp phải phản ứng nghiêm trọng hơn, khi chỉ catgut kích thích mỡ tại vị trí rạch, gây ra hiện tượng hóa lỏng và một lượng nhỏ dịch tiết màu trắng sữa. Điều này là bình thường và thường không cần điều trị. Nếu dịch tiết quá nhiều và nhô ra khỏi bề mặt da, có thể bóp ra chất lỏng màu trắng sữa, lau bằng bông gòn tẩm cồn 75% và băng lại bằng gạc vô trùng. Chi bị ảnh hưởng cũng sẽ bị tăng nhiệt độ tại chỗ sau phẫu thuật, có thể kéo dài trong 3-7 ngày. Nhìn chung, những bệnh nhân có các phản ứng này sẽ có hiệu quả điều trị tốt hơn, trong khi những người không có phản ứng này sẽ có hiệu quả điều trị kém hơn.
Phản ứng toàn thân: Một số ít bệnh nhân bị tăng thân nhiệt trong vòng 4 đến 24 giờ sau khi điều trị, thường khoảng 38°C (một số bệnh nhân cũng có thể tăng lên 39 đến 40°C), kéo dài từ 2 đến 4 ngày và dần trở lại bình thường. Sau khi điều trị, số lượng bạch cầu và bạch cầu trung tính thường tăng ở các mức độ khác nhau.