Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)

Rượu y học cổ truyền Trung Quốc >> GO BACK Current location:Home >> Rượu y học cổ truyền Trung Quốc >> Main text

Dược lý học của rượu thuốc (Kiến thức chung về rượu thuốc)

DATE:2025-10-20 18:18:29Click:399次Font size:T|T
Rượu thuốc được làm bằng cách lựa chọn các loại thảo dược Trung Quốc phù hợp, trải qua quá trình chế biến cần thiết và sử dụng rượu vang trắng hoặc rượu vang vàng có nồng độ cồn thích hợp làm dung môi.

1. Nghiên cứu dược lý về Ethanol: Rượu thuốc được sản xuất bằng cách kết hợp các vị thuốc Đông y phù hợp, trải qua quá trình chế biến cần thiết và sử dụng rượu trắng hoặc rượu vàng có nồng độ phù hợp làm dung môi. Do đó, tất cả các loại rượu thuốc đều chứa một nồng độ cồn (ethanol) nhất định. Để nghiên cứu dược lý của rượu thuốc, trước tiên cần hiểu rõ tác dụng dược lý của ethanol. Những khía cạnh sau đây tương đối rõ ràng.

(1) Ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương: Người ta thường cho rằng uống rượu có tác dụng kích thích, do đó thường có mô tả là "uống để tăng can đảm", nhưng dược lý học cho thấy ethanol chủ yếu là chất ức chế hệ thần kinh trung ương. Nồng độ ethanol thấp có thể tăng cường chức năng của một số synap kích thích, và hiện tượng kích thích mà nó biểu hiện chủ yếu là do chức năng kiểm soát ức chế của não bị mất đi. Đầu tiên bị ảnh hưởng là các hoạt động tinh thần có được thông qua đào tạo và kinh nghiệm. Trí nhớ, khả năng tập trung và nhận thức trở nên kém hoặc thậm chí mất đi. Sự tự tin được tăng cường, và tính cách trở nên vui vẻ và hoạt bát. Ethanol cũng có thể gây an thần, giảm lo âu, sau đó dẫn đến nói lắp, mất điều hòa, suy giảm khả năng phán đoán và trạng thái say xỉn.

Cơ chế tác động: Trong nhiều năm, người ta tin rằng tác dụng ức chế của ethanol, thuốc gây mê bay hơi và barbiturat lên hệ thần kinh trung ương là do chúng tan trong màng tế bào lipid, phá vỡ chức năng của các kênh ion và các protein khác nằm trong màng này. Gần đây, người ta đã chú ý đến tác động của ethanol lên chức năng của các kênh ion được kích hoạt bởi các axit amin kích thích (glutamat) và các axit amin ức chế (axit gamma-aminobutyric, GABA). Cả ethanol và barbiturat gây mê đều có thể tăng cường ức chế synap qua trung gian GABA và dòng clorua ra ngoài. Tác dụng này của ethanol, cũng như tác dụng an thần và mất điều hòa của nó, có thể bị ức chế bởi chất đối kháng đặc hiệu thụ thể GABA bicuculline. Mặc dù cả ethanol và barbiturat đều ức chế dòng ion được kích hoạt bởi glutamat, nhưng tác dụng của chúng lên các phân nhóm thụ thể glutamat lại khác nhau. Ở nồng độ gây say nhẹ, ethanol chủ yếu ảnh hưởng đến thụ thể glutamate NMDA (NMDA là viết tắt của N-methyl-D-aspartate), trong khi barbiturat chủ yếu ảnh hưởng đến thụ thể glutamate AMPA (AMPA là viết tắt của axit 5-amino-3-hydroxy-5-methyl-4-isoxazolepropionic). Gần đây, người ta đã phát hiện ra rằng hệ thống thụ thể 5-HT3 (5-hydroxytryptamine) là một kênh ion kích thích, chọn lọc cation và nồng độ ethanol thấp có thể tạo ra sự hiệp đồng với tác dụng của 5-Kr trên thụ thể này. Các thụ thể 5-HT3 này chủ yếu nằm trên các tế bào thần kinh trung gian ức chế. Ethanol tạo ra sự hiệp đồng tác dụng của 5-HT trên kênh thụ thể này, do đó tăng cường các xung động ức chế của các tế bào thần kinh trung gian này. Tiêm ethanol vào màng bụng trong 3 giây/tuần ở chuột làm tăng giải phóng axit ascorbic trong nhân accumbens và thể vân lần lượt khoảng 140% và 120%. Tăng giải phóng axit ascorbic ở thể vân là đặc tính chung của tất cả các chất chủ vận thụ thể dopamine gián tiếp.

(2) Ảnh hưởng đến hệ tim mạch: Lượng ethanol vừa phải có thể làm giãn mạch máu dưới da, thường khiến da đỏ và nóng. Tuy nhiên, không nên dùng ethanol như một loại thuốc cảm lạnh. Nguyên nhân là do sự co mạch máu dưới da là phản xạ bảo vệ khi trời lạnh. Uống rượu ức chế trung tâm vận mạch, khiến mạch máu dưới da giãn ra, dẫn đến mất nhiệt lượng lớn và tăng nguy cơ tử vong do lạnh cóng. Ethanol có tác dụng trực tiếp làm giãn mạch máu. Ethanol không có tác dụng có lợi trên mạch máu vành ở người. Đối với bệnh nhân đau thắt ngực ổn định, ethanol có thể rút ngắn thời gian vận động cần thiết để gây đau thắt ngực, đồng thời cũng rút ngắn thời gian vận động cần thiết để bệnh nhân tim mạch vành có thể gây ra những thay đổi thiếu máu cục bộ cơ tim trên điện tâm đồ. Ethanol không gây ra những thay đổi về lưu lượng máu não hoặc sức cản mạch máu não ở liều đủ để gây giãn mạch mặt và ngộ độc nhẹ; tuy nhiên, ở nồng độ trong máu trong trường hợp ngộ độc rượu nặng (300 mg/ngày), nó có thể làm tăng đáng kể lưu lượng máu não trung bình và làm giảm sức cản mạch máu não, nhưng lượng oxy hấp thụ vào não lại giảm. Trong mô hình chuột bị co thắt động mạch nền, tiêm tĩnh mạch ethanol 0,5% với liều 20 ml/kg làm giảm đáng kể tình trạng co thắt động mạch nền. Tác động tức thời của ethanol lên tuần hoàn máu tương đối nhỏ; lượng ethanol nạp vào vừa phải không làm thay đổi đáng kể huyết áp, cung lượng tim hoặc sức co bóp cơ tim. Tuy nhiên, trong trường hợp ngộ độc rượu cấp tính và nặng, chức năng tim mạch có thể bị ức chế do ức chế trung tâm vận mạch và chức năng hô hấp. Sử dụng ethanol quá mức trong thời gian dài có thể gây tổn thương tim không hồi phục và là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây bệnh cơ tim.

Có bằng chứng cho thấy uống rượu vừa phải có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành. Cơ chế của nó là thông qua tác động lên lipoprotein huyết tương và ức chế kết tập tiểu cầu. Các cuộc khảo sát dịch tễ học và nghiên cứu thực nghiệm trên người tình nguyện đã chỉ ra rằng khi liều ethanol hàng ngày không đủ để tạo ra các tác dụng trung tâm rõ ràng, nó có thể làm tăng nồng độ lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) trong huyết tương trong vòng vài tuần, do đó đối kháng với sự hình thành xơ vữa động mạch và tạo ra tác dụng bảo vệ. Các cuộc khảo sát dân số cho thấy nồng độ cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-Ch) trong huyết thanh ở nhóm uống rượu cao hơn đáng kể so với nhóm không uống rượu. Sau khi thỏ được cho uống ethanol, HDL-Ch nhanh chóng tăng lên đáng kể và HDL-Ch giảm sau khi ngừng thuốc. Nồng độ cholesterol trong huyết thanh của bệnh nhân ngộ độc rượu thấp hơn đáng kể so với người bình thường, và nồng độ cholesterol trong ngộ độc rượu cấp tính thấp hơn đáng kể so với ngộ độc rượu mãn tính. Khi mọi người uống rượu bình thường

|<< << < 1 2 3 > >> >>|




(Writer:admin)