Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)

Lý thuyết Y học cổ truyền Trung Quốc >> GO BACK Current location:Home >> Lý thuyết Y học cổ truyền Trung Quốc >> Main text

Cấu trúc hệ thống kinh lạc của con người (Thuyết Y học cổ truyền Trung Quốc)

DATE:2025-10-20 15:25:22Click:398次Font size:T|T
Các kinh mạch liên kết và đan xen, tạo thành một hệ thống kinh mạch hùng mạnh. Hệ thống kinh mạch chủ yếu được chia thành sáu phần: mười hai kinh mạch, mười hai kinh mạch bàng hệ, tám kinh mạch đặc biệt, mười lăm kinh mạch bàng hệ, mười hai kinh mạch gân

Các kinh mạch liên kết và đan xen, tạo thành một hệ thống kinh mạch hùng mạnh. Hệ thống kinh mạch chủ yếu được chia thành sáu phần: mười hai kinh mạch, mười hai kinh mạch bàng hệ, tám kinh mạch đặc biệt, mười lăm kinh mạch bàng hệ, mười hai kinh mạch gân và mười hai vùng da. Mười hai kinh mạch, mười hai kinh mạch bàng hệ, tám kinh mạch đặc biệt và mười lăm kinh mạch bàng hệ là kinh mạch chính, trong khi mười hai kinh mạch gân và mười hai vùng da là phần mở rộng của kinh mạch.

(1) Mười hai kinh mạch

Mười hai kinh mạch là cơ quan chính của kinh mạch, thuộc về ngũ tạng và lục phủ, phân bố khắp cơ thể người, gồm nội, ngoại, nông, nội. Cụ thể như sau:

① Kinh ngoại. Dựa vào vị trí khác nhau của kinh ngoại, có thể chia thành kinh chạy qua đầu và thân và kinh chạy qua tứ chi.

Đường đi của các kinh mạch chạy qua đầu và thân như sau: Tay Thái âm của tay ba kinh âm nằm ở bên ngoài ngực trên, tay Thiếu âm nằm dưới não, tay Quyết âm nằm gần ngực; tay Dương minh của tay ba kinh dương nằm ở trước vai, cổ, răng dưới và bên cạnh mũi, tay Thái dương nằm ở xương bả vai, cổ và trước tai, tay Thiếu dương nằm ở vai, cổ, sau tai và ở đầu lông mày; chân Thái âm của chân ba kinh âm nằm ở đường bên thứ ba của ngực và bụng, chân Thiếu âm nằm ở đường bên thứ nhất của ngực và bụng, chân Quyết âm nằm ở hai bên và bộ phận sinh dục; Chân Dương Minh của ba kinh mạch dương ở chân nằm dưới mắt, quanh mặt, trước cổ, và ở đường bên thứ hai của ngực và bụng, chân Thái Dương nằm ở khóe mắt trong, đường bên thứ nhất của đỉnh đầu, sau gáy, đường bên thứ nhất và thứ hai của lưng và eo, và xương cùng, còn chân Thiếu Dương nằm ở khóe mắt ngoài, phần thái dương của đầu, hai bên cổ, hai bên sườn và eo.

Đường đi của các kinh mạch chạy qua các chi như sau (vị trí cơ thể được mô tả bằng ngón cái ở phía trước và ngón út ở phía sau): Kinh Thái âm thủ nằm ở mép trước của bề mặt trong của chi trên đến đầu ngón tay cái, kinh Thiếu âm thủ nằm ở mép sau của bề mặt trong đến đầu ngón út, và kinh Quyết âm thủ nằm ở giữa bề mặt trong đến đầu ngón giữa; kinh Dương minh thủ nằm ở đầu ngoài của ngón chân thứ hai đến đầu trước của bề mặt ngoài của chi trên, kinh Thái dương thủ nằm ở đầu trụ của ngón út đến đầu sau của bề mặt ngoài của chi trên, và kinh Thiếu dương thủ nằm ở đầu trụ của ngón áp út đến giữa bề mặt ngoài của chi trên; Kinh Thái âm bàn chân nằm ở đầu trong của ngón chân cái đến trung tâm mặt trong của chi dưới rồi đến bờ trước; kinh Thiếu âm bàn chân nằm ở ngón chân út và lòng bàn chân đến bờ sau của mặt trong của chi dưới; kinh Quyết âm bàn chân nằm ở đầu ngoài của ngón chân cái đến bờ trước của mặt trong của chi dưới rồi đến giữa; kinh Dương minh bàn chân nằm ở đầu trước của mặt ngoài của chi dưới tới đầu ngoài của ngón chân thứ hai, kinh Thái dương bàn chân nằm ở đầu sau của mặt ngoài của chi dưới tới đầu ngoài của ngón chân út, kinh Thiếu dương bàn chân nằm ở giữa mặt ngoài của chi dưới tới đầu ngoài của ngón chân thứ hai tính từ cuối.

② Nội kinh. Nội kinh thuộc về năm cơ quan nội tạng và có thể chia thành các loại sau: ba kinh âm ở tay, ba kinh dương ở tay, ba kinh dương ở chân và ba kinh âm ở chân.

Ba kinh âm của bàn tay được chia thành kinh Thái âm phổi (thuộc về phổi và thông với ruột già), kinh Thiếu âm tâm (thuộc về tim và thông với ruột non) và kinh Quyết âm màng ngoài tim (thuộc về màng ngoài tim và thông với tam tiêu).

Ba kinh Dương ở tay được chia thành kinh Thủ Dương Minh Đại tràng (thuộc về ruột già và thông với phổi), kinh Thủ Thái Dương Tiểu tràng (thuộc về ruột non và thông với tim) và kinh Thủ Thiếu Dương Tam đốt (thuộc về tam đốt và thông với màng ngoài tim).

Ba kinh âm ở bàn chân được chia thành kinh tỳ ở bàn chân là Thái âm (thuộc về tỳ và nối với vị), kinh thận ở bàn chân là Thiếu âm (thuộc về thận và nối với bàng quang và tim), và kinh can ở bàn chân là Quyết âm (thuộc về gan và nối với túi mật).

Ba kinh dương của chân được chia thành kinh Vị Chân Dương Minh (thuộc về vị, thông với tỳ), kinh Bàng Quang Bàng Thái Dương (thuộc về bàng quang, thông với thận và não), và kinh Tàng Dương Bàng (thuộc về túi mật, thông với gan).

3. Quan hệ ngoại-nội. Mối quan hệ này có hai ý nghĩa: một là sự thống nhất giữa kinh mạch âm (nội) và kinh mạch dương (ngoại); hai là sự liên kết giữa các chức năng bên trong và bên ngoài của cơ thể con người. Các kinh mạch, một âm một dương, kết nối với nhau, tạo thành các mối liên hệ sau: tay Thái Âm và tay Dương Minh, tay Thiếu Âm và tay Thái Dương, tay Quyết Âm và tay Thiếu Dương, chân Thiếu Âm và chân Thái Dương, chân Quyết Âm và chân Thiếu Dương, chân Thái Âm và chân Dương Minh.

4. Quan hệ lưu thông. Theo quan hệ lưu thông, thứ tự của mười hai kinh mạch là: Thủ Thái Âm (Phổi), Thủ Dương Minh (Đại tràng), Chân Dương Minh (Vị), Chân Thái Âm (Tỳ), Thủ Thiếu Âm (Tim), Thủ Thái Dương (Tiểu tràng), Chân Thái Dương (Bàng quang), Chân Thiếu Âm (Thận), Thủ Quyết Âm (Màng tim), Thủ Thiếu Dương (Tam đốt), Thủ Thiếu Dương (Túi mật), Chân Quyết Âm (Can).

(2) Mười hai kinh mạch

Mười hai kinh phụ là các nhánh của mười hai kinh, tổng cộng là mười hai. Ba kinh âm và ba kinh dương của tay và chân hợp lại thành sáu cặp, hay sáu tổ hợp. Trong đó, tay dương minh và tay thái âm hợp lại thành tay dương minh, tay thiếu dương và tay quyết âm hợp lại thành tay thiếu dương, tay thái dương và tay thiếu âm hợp lại thành tay thái dương, chân thái dương và chân thiếu âm hợp lại thành chân thái dương, chân thiếu dương và chân quyết âm hợp lại thành chân thiếu dương, chân dương minh và chân thái âm hợp lại thành chân dương minh.

(3) Tám Kinh Tuyến Phi Thường

Sự phân bố của tám kinh ngoại và mười hai kinh mạch là chéo nhau. Tám kinh ngoại bao gồm tám kinh mạch sau: kinh Đô nằm ở đường giữa sau, kinh Nhâm nằm ở đường giữa trước, kinh Xung nằm ở đường bên thứ nhất của bụng, kinh Đại nằm ở bên hông, kinh Dương Kiều nằm ở phía ngoài đầu, vai và chi dưới, kinh Âm Kiều nằm ở phía trong mắt và chi dưới, kinh Dương Vị nằm ở phía ngoài đầu, cổ, vai và chi dưới, và kinh Âm Vị nằm ở đường bên thứ ba của cổ và bụng và phía trong chi dưới.

(4) Mười lăm tĩnh mạch phụ

Mười lăm kinh lạc chủ yếu bao gồm kinh lạc thứ nhất, kinh Nhâm, kinh Độ và kinh lạc lớn của Tỳ, phân nhánh từ mười hai kinh chi. Cụ thể là: kinh Thái Âm tay, kinh Thiếu Âm tay, kinh Quyết Âm tay, kinh Dương Minh tay, kinh Thái Dương tay, kinh Thiếu Dương tay, kinh Thái Âm chân, kinh Thiếu Âm chân, kinh Quyết Âm chân, kinh Dương Minh chân, kinh Thái Dương chân, kinh Thiếu Dương chân, kinh Nhâm, kinh Độ và kinh Đại Tỳ.

(5) Mười hai cơ kinh lạc

Mười hai kinh mạch là các cơ bắp của cơ thể con người, được chia thành ba kinh âm và ba kinh dương ở tay và chân theo vị trí của chúng. Cụ thể, chúng bao gồm: gân tay Thái Âm, gân tay Thiếu Âm, gân tay Quyết Âm, gân tay Dương Minh, gân tay Thái Dương, gân tay Thiếu Dương, gân chân Thái Âm, gân chân Thiếu Âm, gân chân Quyết Âm, gân chân Dương Minh, gân chân Thái Dương, gân chân Thiếu Dương.

(6) Mười hai vùng da

Da người có thể được chia thành mười hai vùng theo sự phân bố của kinh lạc, được gọi là mười hai vùng da. Mười hai vùng da này có thể được gộp lại thành sáu vùng da kinh lạc, như sau: Hải Kiếm, Thục Như, Quán Giả, Thục Trì, Hải Phi, Quán Thục.





(Writer:admin)