Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
Phương pháp chẩn đoán mạch bàng hệ ở ngón trỏ lần đầu tiên được Vương Triều đề cập đến trong "Thủy Kinh Đồ Quyết" của đời Đường. Phương pháp này được phát triển từ phương pháp chẩn đoán mạch bàng hệ ở huyệt vị trong "Lăng Thứ". Phương pháp này có ý nghĩa chẩn đoán quan trọng đối với trẻ em dưới ba tuổi.
Sự xuất hiện và phân bố của các mạch máu bên ngón trỏ có thể được chia thành ba cửa: phong, khí và thọ. Đoạn đầu tiên của ngón trỏ là cửa phong, nằm từ nếp gấp khớp bàn ngón tay cái đến nếp gấp đốt thứ hai. Đoạn thứ hai là cửa khí, nằm từ nếp gấp đốt thứ hai đến nếp gấp đốt thứ ba. Đoạn thứ ba là cửa thọ, nằm từ nếp gấp thứ ba đến đầu xa.
Phương pháp chẩn đoán mạch bàng hệ là: bế trẻ về phía ánh sáng, bác sĩ dùng tay trái giữ ngón trỏ của trẻ, dùng ngón cái của tay phải ấn nhẹ từ huyệt Minh quan đến huyệt Khí quan và Phụng quan, ấn nhiều lần. Ấn càng mạnh, mạch bàng hệ càng hiện rõ, dễ quan sát hơn.
Tĩnh mạch bàng hệ bình thường có màu đỏ nhạt, pha trộn giữa đỏ và vàng, và có thể nhìn thấy mờ nhạt bên trong cửa gió. Hầu hết các tĩnh mạch này không lộ ra hoặc thậm chí không rõ ràng. Chúng chủ yếu nằm xiên, đơn độc và có độ dày vừa phải. Các tĩnh mạch bàng hệ ở ngón trỏ được quan sát như sau:
1. Chiều dài
Khi thấy mạch bàng quang ở Phong quan thì chứng tỏ tà khí đã vào bàng quang, nhưng tà khí nông, bệnh nhẹ.
Màu sắc của các mạch bàng hệ kéo dài từ Phong quan đến Khí quan càng đậm thì chứng tỏ tà khí đã xâm nhập vào kinh mạch, chứng tỏ tà khí đã thâm nhập sâu, bệnh tình nghiêm trọng.
Nếu kinh lạc xuất hiện ở Minh quan thì chứng tỏ tà khí đã xâm nhập sâu vào nội tạng, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, nên được gọi là Minh quan.
Nếu các mạch máu bên chạm trực tiếp đến đầu ngón tay thì gọi là "xuyên thủng cửa và bắn đinh". Bệnh nặng hơn và tiên lượng xấu.
2. Những thăng trầm
Nếu các mạch máu bên bị lộ ra, bệnh sẽ biểu hiện trên bề mặt, thường biểu hiện bằng các triệu chứng bên ngoài.
Nếu các mạch máu bên bị ứ trệ, bệnh chủ yếu là nội khoa, thường thấy ở các triệu chứng bên trong của nhiễm trùng ngoại sinh và chấn thương bên trong.
3. Độ sâu
Màu đậm, đậm biểu thị bệnh nặng, màu nhạt biểu thị bệnh nhẹ. Màu nhạt biểu thị thiếu, màu ứ đọng biểu thị dư. Trong trường hợp âm dương mất đột ngột, màu sắc trở nên nhợt nhạt và vô hình vì dương khí không đến được tứ chi. Trong trường hợp hội chứng kín, khi các yếu tố gây bệnh bị mắc kẹt trong màng ngoài tim, khí huyết thường bị ứ đọng, dẫn đến màu sắc ứ đọng và sẫm màu ở các tĩnh mạch bàng hệ.
4. Màu sắc
Màu đỏ tím biểu thị nhiệt bên trong; màu đỏ tươi biểu thị triệu chứng bên ngoài; màu xanh lá cây biểu thị phong và các triệu chứng đau khác nhau; màu nhạt biểu thị thiếu chất; màu tím đen biểu thị ứ máu và là dấu hiệu của bệnh nặng.
5. Hình dạng
Nếu các mạch máu bàng hệ ngày càng dài ra thì bệnh sẽ tiến triển và trở nên nghiêm trọng hơn; nếu các mạch máu bàng hệ ngày càng ngắn lại thì bệnh sẽ thuyên giảm và trở nên ít nghiêm trọng hơn.
Những người có Âm hư, Dương phù thường có mạch máu bàng hệ dài.
Các mạch máu bàng hệ dày hơn chủ yếu là do hội chứng nhiệt và hội chứng thừa; các mạch máu bàng hệ mỏng hơn chủ yếu là do hội chứng lạnh và hội chứng thiếu hụt.
Cành đơn và hình xiên thường chỉ ra bệnh nhẹ; cành cong, tròn và nhiều nhánh chỉ ra bệnh nặng và thường là dấu hiệu tích cực.