Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)

Chẩn đoán TCM >> GO BACK Current location:Home >> Chẩn đoán TCM >> Main text

Ngửi trong Y học cổ truyền Trung Quốc – Vomitus (Mùi trong Y học cổ truyền Trung

DATE:2025-10-20 18:41:29Click:411次Font size:T|T
Nôn mửa bắt nguồn từ dạ dày và do khí vị trào ngược lên. Trong điều kiện sinh lý bình thường, dạ dày hoạt động trơn tru khi xuống, và chỉ khi khí vị xuống thì thức ăn và đồ uống mới có thể đi qua. Nếu dạ dày không xuống, khí vị sẽ trào ngược lên, gây ra n

Nôn mửa bắt nguồn từ dạ dày và do khí vị trào ngược lên. Trong điều kiện sinh lý bình thường, dạ dày hoạt động trơn tru khi xuống; chỉ khi khí vị xuống, thức ăn và đồ uống mới được vận chuyển. Nếu dạ dày không xuống đúng cách, khí vị sẽ trào lên, dẫn đến nôn mửa. Do đó, nôn mửa có thể phản ánh sự bất thường trong quá trình xuống của khí vị. Trên lâm sàng, mùi nôn mửa thay đổi tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh, và mùi nôn mửa có thể được sử dụng để đánh giá thêm tình trạng lạnh, nóng, thiếu và thừa của bệnh.

① Mùi tanh

[Nghe] Chất nôn loãng, có vị tanh, không có mùi.

Ý nghĩa lâm sàng: Tình trạng này do lạnh dạ dày gây ra, có thể được phân loại thành thiếu hoặc thừa. Lạnh dạ dày thường do phong hàn ngoại sinh hoặc ăn quá nhiều thực phẩm sống hoặc lạnh. Các tác nhân gây bệnh lạnh xâm nhập vào dạ dày và ruột, gây nôn. Nôn có thể bắt đầu bằng nước trong, sau đó là thức ăn đã ăn. Tình trạng này cũng phải bao gồm các triệu chứng nhiễm trùng ngoại sinh hoặc đau thượng vị dữ dội, một dấu hiệu của sự dư thừa. Như đã nêu trong "Sốt Bệnh Luận: Phân Biệt Mạch, Triệu Chứng Bệnh Thái Dương và Cách Điều Trị", bệnh Thái Dương đặc trưng bởi sợ lạnh, đau nhức cơ thể và nôn mửa. Điều này đề cập đến nôn mửa do khí ứ đọng ở thượng vị và khí dư thừa. "Đan Hy Tâm Pháp: Nôn mửa" nói rằng "Khí lạnh bị kẹt trong dạ dày", cũng đề cập đến nôn mửa do lạnh ngoại sinh xâm nhập vào dạ dày. Kinh Nhạc Toàn Tập, Tạp Bệnh và Nôn mửa, nói rằng nôn mửa thường do lạnh xâm nhập vào dạ dày. Do đó, tám trong số mười trường hợp là do dạ dày lạnh, trong khi chỉ có một hoặc hai trong số mười trường hợp là do nội nhiệt. Nôn do các yếu tố bên ngoài đặc biệt dễ bị các tác nhân gây bệnh do lạnh. Nó cũng xác định ba triệu chứng có thể xảy ra: thức ăn hoặc đồ uống lạnh hoặc thực phẩm có tính chất lạnh; âm khí lạnh hoặc ẩm ướt trong đất và nước xâm nhập vào dạ dày; và nhiễm trùng ngoại sinh do phong hàn, chẳng hạn như sốt thương hàn hoặc sốt rét, với các tác nhân gây bệnh nằm ở kinh Thiếu dương và Dương minh. Cảm lạnh hư thường do dạ dày không đủ dương, ngăn cản quá trình tiêu hóa thức ăn và nước uống, dẫn đến sự phân biệt đục và không rõ ràng giữa thức ăn và đồ uống, dẫn đến sự mất cân bằng trong dạ dày và trào ngược lên trên, gây nôn mửa. Điều này là do tỳ vị hư hoặc tỳ vị dương hư.

[Phương pháp điều trị] Đối với bệnh nhân bị hàn khí quá mức, nên dùng thuốc làm ấm dạ dày, tiêu hàn, giảm tác dụng phụ và cầm nôn. Có thể điều chỉnh đơn thuốc bằng Tô Hương Chính Khí Tán. Đối với bệnh nhân bị hàn khí hư, nên dùng thuốc bổ tỳ, làm ấm dương, giảm tác dụng phụ và cầm nôn hoặc bổ tỳ, làm ấm thận, giảm tác dụng phụ và cầm nôn. Có thể điều chỉnh đơn thuốc bằng Phụ Tử Lý Hồng Đan hoặc Kim Khuê Thần Khí Đan.

② Mùi chua

[Nghe] Chất nôn đặc và đục, có mùi chua và hôi.

【Ý nghĩa lâm sàng】Đây là do dạ dày nóng gây ra. Chủ yếu là do nhiệt độ quá cao, thức ăn bị hấp hơi và thối rữa, tính chất của hỏa là viêm, khiến khí dạ dày bốc lên, nôn mửa đục ngầu, hôi thối. Ví dụ, "Tố Văn Chí Chân Diêu Đại Luân" chép: "Tất cả nôn mửa axit, nôn mửa đột ngột và gấp gáp đều do nhiệt." "Kinh Nguyệt Toàn Thư Tạp Bệnh Nôn" cho rằng vì ở giữa có hỏa tà, nên nhất định kèm theo triệu chứng hỏa, nôn mửa sẽ dữ dội, hình dạng, hơi thở, giọng nói và màu sắc đều mạnh; có loại hỏa nhẹ, hỏa nặng, và có loại nhiệt mùa hè xâm nhập dạ dày. "Tạp bệnh căn nguyên Tây Trúc - Nôn mửa và nấc cụt căn nguyên" cũng nói: "Có người sau khi ăn xong nôn dữ dội, mạch phù mạnh, đây là do thượng vị hỏa nghịch. Có người nôn hạ vị do thượng vị hỏa nghịch, cũng là do thượng vị hỏa nghịch; có người do hạ vị hỏa nghịch, táo bón, nôn do khí nghịch, gọi là đi đứng ăn uống;... có người do can hỏa từ dạ dày trào ra; có người do kinh vị hỏa quá độ;... có người do dạ dày nóng, hư hàn, bồn chồn, nôn mửa sau khi mắc bệnh nặng..."

[Phương pháp điều trị] Thanh nhiệt, cầm nôn. Đơn thuốc là thang thuốc Thạch cao Trúc đào, có cải biên.

③Mùi chua

[Nghe] Chất nôn có vị chua, hôi và lẫn với thức ăn chưa tiêu hóa (thức ăn cũ).

Ý nghĩa lâm sàng: Tình trạng này thường do thức ăn ứ đọng trong dạ dày gây ra. Ăn quá nhiều thường gây tổn thương tỳ và dạ dày, khiến thức ăn chưa tiêu hóa không được tiêu hóa. Theo thời gian, thức ăn bị phân hủy, dẫn đến nôn mửa chua và thối, mặc dù vẫn chứa ngũ cốc nguyên hạt. Như đã đề cập trong "Nguồn gốc của các bệnh khác: Nguồn gốc của nôn mửa", tình trạng ứ đọng thức ăn trong dạ dày thường gây nôn thức ăn có tính axit. Nếu sau khi ăn, cơn đau âm ỉ, không thể chịu đựng được ở bụng dưới, chỉ thuyên giảm sau khi nôn, tình trạng này được gọi là "viêm khớp thức ăn". Cho dù nguyên nhân là do vi khuẩn gây cảm lạnh xâm nhập dạ dày, gan lấn át tỳ, hay do phong và đờm làm xáo trộn tỳ và dạ dày, bất kỳ tình trạng nôn thức ăn nào cũng được gọi là "viêm khớp thức ăn".

[Phương pháp điều trị] Nên tiêu hóa thức ăn, loại bỏ tình trạng ứ trệ, giảm phản ứng phụ và ngừng nôn. Đơn thuốc là Thuốc Bảo Hòa có điều chỉnh.

④Mùi tanh

[Nghe bằng khứu giác] Chất nôn có mùi tanh hoặc có mủ và máu.

Ý nghĩa lâm sàng: Tình trạng này thường do áp xe dạ dày gây ra. "Giới thiệu Y khoa" viết: "Đau thượng vị là do hỏa khí tích tụ từ thức ăn, đồ uống và thất tình, sau đó bị hàn khí bên ngoài chặn lại, khiến khí nóng đục tràn vào dạ dày." "Kim Kính Tổ Y: Những Điều Cần Biết Về Ngoại Khoa" cũng cho rằng nôn ra mủ và máu từ dạ dày là do thức ăn độc hại, thất tình và nhiệt lượng tích tụ trong dạ dày, hình thành áp xe.

Điều trị: Giai đoạn đầu nên dùng để thanh nhiệt, thông đại tiện, thúc đẩy tuần hoàn máu, giải ứ trệ. Nên dùng Đại Hoàng Mẫu Đơn Tỳ biến thể. Nếu có mủ, nên dùng để thúc đẩy tuần hoàn máu, dẫn lưu mủ. Nên dùng Xích Tiêu Đấu Nhất Nhất Nhân biến thể. Sau khi dẫn lưu mủ, bổ khí bằng Bất Trung Nhất Khí biến thể.

⑤ Mùi phân

[Nghe] Chất nôn có mùi phân.

[Ý nghĩa lâm sàng] Nôn có mùi phân có thể do tắc môn vị, viêm phúc mạc hoặc tắc ruột.

[Phương pháp điều trị] Cần lựa chọn phương pháp điều trị và đơn thuốc phù hợp theo các triệu chứng lâm sàng cụ thể.

Tóm lại, khi bị thấp nhiệt hoặc nhiệt tà gây bệnh, chất nôn thường đục và có mùi hôi thối. Khi bị lạnh nhiệt hoặc nhiệt tà gây bệnh, chất nôn thường trong và không có mùi đặc biệt.





(Writer:admin)