Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)

Các trường hợp y học cổ truyền Trung Quốc >> GO BACK Current location:Home >> Các trường hợp y học cổ truyền Trung Quốc >> Main text

Không nên sử dụng Schisandrae Chinensis cho các triệu chứng dương tính (kinh ngh

DATE:2025-10-20 15:08:14Click:411次Font size:T|T
Tác dụng hạ transaminase của Schisandra chinensis đã được chứng minh bằng dược lý học hiện đại. "Từ điển Y học Trung Quốc" ghi nhận việc sử dụng riêng bột Schisandra chinensis để hạ transaminase.

Tác dụng hạ men gan của Schisandra chinensis đã được dược lý học hiện đại chứng minh. Sách "Bản thảo dược học Trung Quốc" ghi nhận việc sử dụng riêng bột Schisandra chinensis để hạ men gan. Mặc dù phương pháp này phổ biến vào những năm 1960 và 1970, nhưng các quan sát lâm sàng trong Y học cổ truyền Trung Quốc (TCM) đã chỉ ra rằng một số bài thuốc thảo dược này kém hiệu quả hơn. Điều này là do đặc tính, hương vị và công dụng của Schisandra chinensis không phù hợp để điều trị các triệu chứng quá mức. Do đó, nên thận trọng khi sử dụng Schisandra chinensis cho những bệnh nhân có các triệu chứng quá mức.

Theo quan điểm về nguyên nhân và triệu chứng, transaminase tăng cao trong viêm gan siêu vi có liên quan chặt chẽ với tình trạng thấp nhiệt kéo dài. Trong giai đoạn cấp tính, các giá trị cao hơn phản ánh tình trạng độc tính thấp nhiệt nghiêm trọng hơn. Trong giai đoạn mãn tính, điều này thường chỉ ra sự thiếu hụt năng lượng sống, với các mầm bệnh còn sót lại chưa được loại bỏ, khiến độ ẩm kéo dài. Độ ẩm là một mầm bệnh âm có tính chất dính. Schisandra chinensis, một loại thảo mộc nuôi dưỡng âm và thúc đẩy độ ẩm, không tản ẩm cũng không tản nhiệt. Tính chất chua, chát của nó thúc đẩy độ ẩm, trong khi tính chất ấm của nó thúc đẩy nhiệt. Điều này có thể dẫn đến sự vướng víu của độ ẩm và nhiệt, ngăn chúng phân tán. Điều này dẫn đến tình trạng độc tính bị mắc kẹt bên trong và gan không thể tản ẩm, từ đó làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh.

Về công dụng và chỉ định của Ngũ vị tử, Thần Nông Bản Thảo Kinh (Thần Nông Bản Thảo Kinh) ghi rằng nó "bổ khí, cường âm, bổ tỳ hư". Lý Không Đỉnh Luận Nghĩa Ký (Y Học Tuyển Tập) còn ghi thêm: "Schisandra chinensis có tính ấm, thuộc dương. Khi dùng với thảo dược dương, nó bổ khí; vị chua thuộc âm. Khi dùng với thảo dược âm, nó bổ âm. Kết hợp hai đặc tính này, nó đạt được cả tác dụng bổ khí và dưỡng âm". Viêm gan siêu vi có thể biểu hiện dưới dạng thiếu hoặc thừa. Hội chứng thiếu chủ yếu bao gồm khí và âm hư, trong khi hội chứng thừa chủ yếu bao gồm tích tụ ẩm ướt, nhiệt, suy gan và ứ trệ khí. Do có công dụng bổ khí và dưỡng âm của Ngũ vị tử, nó chỉ phù hợp cho những bệnh nhân bị hội chứng thiếu để giảm nồng độ enzyme. Tuy nhiên, đối với các hội chứng gan suy và khí ứ trệ quá mức, việc bổ khí có thể gây ra sự gia tăng khí đột ngột và không hiệu quả trong việc điều hòa lưu thông khí, trong khi dưỡng âm lại có thể thúc đẩy ẩm ướt, khiến phức hợp ẩm-nhiệt khó hóa giải và cản trở sự lưu thông khí. Kim Quỳ Dược Luận (Kim Phòng Yếu Luận) cũng ghi: "Đối với bệnh gan, dùng thảo dược chua để bổ gan... Phương pháp này dùng cho gan hư, không dùng cho gan dư." Điều này nêu rõ rằng thảo dược chua được khuyến khích cho gan hư, và thảo dược chua chống chỉ định cho gan dư. Nếu không, bạn sẽ vi phạm điều cấm kỵ "giả và thật". Hai trường hợp y khoa sau đây cung cấp cho chúng ta kinh nghiệm và bài học.

Trong bài viết "Quan sát và Thảo luận Lâm sàng về Tác dụng của Chiết xuất Ngũ vị tử (Schisandra Chinensis) trong việc Hạ Transaminase", một bệnh nhân viêm gan mạn tính hoạt động có mức transaminase dao động khoảng 150 đơn vị. Sau khi dùng Viên nang Wurenchun (Chiết xuất Ngũ vị tử) trong hơn 40 ngày, mức transaminase của ông đã trở lại bình thường. Tuy nhiên, các triệu chứng chủ quan của ông trở nên tồi tệ hơn. Sau khi ngừng dùng Viên nang Wurenchun trong nửa tháng, mức transaminase của ông tăng trở lại 100 đơn vị. Sắc mặt ông trở nên nhờn, miệng nhờn và đắng, ngực và bụng đầy. Lưỡi ông phủ một lớp màng dày màu vàng, cho thấy dấu hiệu tích tụ nhiệt thấp. Sau đó, ông được điều trị bằng Cao Âm Trần kết hợp với Bột Tiêu Dao, điều trị cả gan và tỳ. Phương pháp điều trị này loại bỏ ẩm thấp và hạ nhiệt. Sau hơn hai tháng, các triệu chứng của ông đã thuyên giảm và mức transaminase trở lại bình thường. Kết quả tái khám vài tháng sau đó cho thấy không có hiện tượng tái phát.

Trong trường hợp đau mạn sườn 2, được mô tả trong "Hồ sơ quan sát và chẩn mạch" của Tan Lichuu, một thầy thuốc Đông y nổi tiếng ở tỉnh Hồ Nam, một bệnh nhân nam 54 tuổi bị viêm gan không vàng da và ALT là 230 đơn vị, khám phát hiện gan to, nằm dưới đường giữa đòn phải 0,5 cm, mềm, bờ rõ, không có nốt sần và đau nhẹ. Bác sĩ trước đã điều trị cho ông trong năm tháng bằng thuốc Tây và bột Ngũ vị tử (60 gram mỗi ngày). Ông vẫn bị đau âm ỉ ở vùng gan, bụng chướng nhiều hơn và phân lỏng, khô. Gan của ông to lên 1 cm dưới đường giữa đòn, với kết cấu khá cứng. ALT của ông là 262 đơn vị. Sau khi được Tan Lichuu chẩn đoán và điều trị, sắc mặt bệnh nhân tái nhợt, hơi xanh, đau và sưng ở mạn sườn phải, lưỡi nhão, mạch huyền hoạt, đặc biệt là mạch bên trái, cho thấy hội chứng Mộc ứ. Bệnh nhân đã ngừng dùng thuốc tây và bột Ngũ vị tử, kết hợp với Sini San và Cam thảo để bổ gan, tăng cường khí huyết. Sau khi uống tổng cộng 12 liều, tất cả các triệu chứng đều biến mất, men gan alanine aminotransferase trở về bình thường. Hơn 10 năm nay không tái phát.

Tóm lại, lý do thực sự khiến Ngũ vị tử không lý tưởng để khử enzyme là do quan niệm y học hiện đại về việc sử dụng Ngũ vị tử để khử enzyme. Linh hồn của y học Trung Quốc nằm ở việc phân biệt các triệu chứng, vì vậy khi sử dụng Ngũ vị tử để khử enzyme, trước tiên chúng ta nên phân biệt giữa thiếu và thừa, và tránh sử dụng cho các triệu chứng dư thừa.





(Writer:admin)