Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
Hoa sắn dây chữa say rượu , khát nước : Lấy 10-15 gam thảo dược này sắc uống. Để phòng say rượu, có thể dùng nước sắc thay trà. Thuốc có tác dụng chữa uống rượu nhiều, nôn mửa, đờm, đau đầu, bồn chồn, tức ngực, run tay chân, tiểu khó, tiêu chảy. Dùng thuốc sắc hoa sắn dây (Lanshi Mizang) để điều trị tình trạng này. Thuốc chứa 1,5 gam rễ costus, 4,5 gam nhân sâm, 4,5 gam hoàng liên ô, 4,5 gam phục linh, 4,5 gam vỏ quýt, 6 gam bạch truật, 6 gam gừng khô, 6 gam thần khúc, 6 gam củ năng, 9 gam vỏ xanh, 15 gam sa nhân, 15 gam bạch đậu khấu và 15 gam hoa sắn dây. Sắc thuốc. Hoa sắn dây là hoa của cây sắn dây, được nhắc đến lần đầu tiên trong Minh Nghi Biệt Lục. Hoa sắn dây có tính mát, vị ngọt, tác dụng vào kinh tỳ vị, có tác dụng giải rượu, giải khát.
Bạch đậu khấu được dùng để giải rượu. Liều dùng từ 3-10 gram, không nên sắc thuốc kéo dài. Bạch đậu khấu thường được dùng kết hợp với các loại thảo dược như Sa nhân, Mộc lan và vỏ quýt. Được đề cập lần đầu tiên trong "Phụ bản thảo cương mục", bạch đậu khấu có tính ấm, vị cay, tác dụng vào kinh tỳ vị. Bạch đậu khấu có tác dụng thông thấp, thông khí, làm ấm bụng, cầm nôn. Bạch đậu khấu được dùng để điều trị các triệu chứng như khí ứ trệ do ẩm thấp, tức ngực, chướng bụng, lạnh bụng, khó tiêu, nấc cụt và nôn mửa. Bạch đậu khấu cương mục cũng được đề cập như một chất giải rượu.
Alpinia officinalis có thể chữa chứng uống nhiều rượu, cảm lạnh và nôn mửa . Lấy 10-15 gram thảo dược này và sắc lấy nước. Đối với cảm lạnh nặng, có thể dùng kết hợp với Pinellia ternata, gừng tươi và Cyperus rotundus. Alpinia officinalis được đề cập lần đầu tiên trong Minh Y Biệt Lục (Danh Y). Vị thuốc này có tính cay, tính ấm, vào kinh tỳ vị. Nó có tác dụng thanh nhiệt, giảm đau, ấm bụng và cầm nôn. Đại Minh Dược Luận (Đa Minh Dược Luận) đề cập đến công dụng của nó trong điều trị chuột rút, tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa, giải rượu và tiêu hóa.
Lá tre có thể làm giảm sốt do say rượu, khát nước và các vấn đề về tiểu tiện. Lấy 30-50 gram thảo dược này, sắc hoặc đun sôi với hoa cúc và bạc hà rồi uống như trà để chống say rượu. Lá tre được đề cập lần đầu tiên trong Bản thảo cương mục. Lá tre có tính hàn, vị ngọt, tác dụng vào kinh tâm, vị và ruột non. Có tác dụng thanh nhiệt, giải khát và lợi tiểu. Lá tre được dùng để chữa sốt, khát nước và lở miệng.
Đinh hương có thể làm giảm nôn mửa và ớn lạnh do uống rượu . Chúng có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhân sâm, gừng, thì là và đài hoa hồng. Để ngăn ngừa ngộ độc rượu, có thể pha 3-5 gram đinh hương thành trà. Đinh hương lần đầu tiên được đề cập trong Materia Medica (Bản thảo cương mục). Chúng có tính ấm và vị cay, đi vào kinh tỳ, dạ dày và thận. Chúng có tác dụng làm ấm trung vị và giảm các phản ứng bất lợi, làm ấm thận và hỗ trợ dương. Chúng thường được sử dụng để điều trị nôn mửa và nấc cụt do lạnh dạ dày, cũng như liệt dương do thận hư. Materia Medica thời nhà Minh cũng đề cập đến công dụng của chúng trong việc điều trị cảm lạnh và giải độc rượu.
Rễ cây lau sậy có thể làm giảm sốt do say rượu, khát nước và nôn mửa. Lấy 30-60 gam thảo dược này, sắc lấy nước uống. Hoặc có thể dùng nước sắc từ rễ cây lau sậy: 15 gam rễ cây lau sậy, 9 gam bào tre, 50 gam gạo nếp và 5 lát gừng, sắc lấy nước uống như trà. Rễ cây lau sậy lần đầu tiên được đề cập trong Thần Nông Dược Kinh. Tính hàn, vị ngọt của nó đi vào kinh phế vị, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, cầm nôn. Nó được dùng để chữa sốt, khát nước, nhiệt dạ dày, nôn mửa và ho do nhiệt phổi. Theo Dược thư mới được sửa đổi, nó có thể chữa nôn mửa, chán ăn và nhiệt dạ dày.