Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
Vì Thái Sơ Mạch là một phương pháp bói toán được các pháp sư Khang Hồ sử dụng, nên hầu hết các bác sĩ đều bỏ qua nó. Tuy nhiên, vì nó đề cập đến vóc dáng và tính cách của con người, nên nó đáng được tham khảo trong một số khía cạnh chẩn đoán. Ngoài ra, Thái Sơ Mạch còn đề cập đến các trạng thái mạch như nổi, chìm, trơn và se, và đôi khi việc mô tả hình dạng mạch cũng đủ để tham khảo. Do đó, một số bác sĩ đã thảo luận về Thái Sơ Mạch và thậm chí còn trích dẫn nó trong các sách về mạch.
Ngô Khôn thời nhà Minh đã viết trong cuốn "Ngôn ngữ Mạch": "Các thầy thuốc coi Kỳ Hoàng là tổ tiên. Khi bàn về mạch, họ chỉ chẩn đoán bệnh và quyết định sự sống chết. Không có cái gọi là Thái Súc. Các vị thần Biển Thước, Thương Công, các vị thánh Trung Tĩnh, Thúc Hà đều không có cái gọi là Thái Súc. Tại sao sau này lại có những người được gọi là Thái Súc, không chỉ có thể chẩn đoán bệnh tình mà còn có thể đoán được giàu nghèo, không chỉ quyết định sự sống chết mà còn biết được vận rủi và phúc báo của họ? Tài năng của họ thậm chí còn vượt trội hơn cả các vị thánh thời xưa. Đây chính là giáo lý của dòng họ Phù Thủy Phong Kiếm! Người mới bắt đầu nên học tập nguyên lý này trước để tránh bị mê hoặc bởi tà giáo. Sau đó, công phu của họ sẽ được tôi luyện từng ngày, và họ có thể bước vào các cung điện của Thương, Biện, Trương, Vương! Vì vậy, Thái Súc là "Người ta phải phân biệt các nhánh phi truyền thống của y học, và người ta cũng phải ghét màu tím và màu đỏ, và tránh xa những ý định xấu xa và dâm ô." cũng nói: "Người luyện Thái Túc không nhất thiết phải theo Thái Túc, mà phải theo Phùng Kiến. Phùng Kiến là bậc thầy, mà lý luận của Thái Túc lại tự lừa dối mình. Kẻ xấu nhất là kẻ tìm tòi điều bí ẩn, điều kỳ lạ, dốc hết sức lực để học hỏi. Đây chính là giáo lý của gia tộc phù thủy! Khổng Tử nói: 'Đánh tà là hại'. Người chính trực làm sao có thể làm như vậy?" Ông ta hoàn toàn phủ định, cho rằng tri thức thu được từ phương pháp của Thái Túc là bất khả thi. Họ chỉ dùng thủ đoạn khác để moi thông tin về vận mệnh tốt xấu, lại còn cho rằng thông qua bắt mạch Thái Túc để lừa người. Tuy nhiên, ông ta vẫn tin rằng mạch trong và đục của Thái Túc là có thể chấp nhận được.
Trương Tịnh Nhạc nói: "Tôi đã đọc sách của ông ấy. Tuy tên là Thái Túc, nhưng không có một chữ nào trong đó đi ngược lại ý nghĩa của Thái Túc. Những bài hát và bản tóm tắt ông ấy viết phần lớn đều thô tục, không có chút lý trí nào. Ý đồ ban đầu của ông ấy chỉ là lợi dụng nó để kiếm chút lợi nhuận. Thế hệ sau không để ý mà truyền lại cho người khác. Không ai nhận ra điều đó là sai." Ông cũng nói: "Mặc dù con người sinh ra đã có khí trời đất, nhưng không thể không có sự khác biệt giữa trong và đục, giữa thuần và đục. Những người sinh ra có khí trời trong thì huyết mạch trong và mạch mạch trong. Khi mạch mạch trong thì tròn và sạch, mạch mạch trong. Khi tôi chẩn đoán, tôi chỉ có thể biết rằng đó là người giàu có và quyền quý. Tôi không thể biết khi nào họ sẽ đỗ kỳ thi, khi nào họ sẽ được thăng chức, khi nào họ sẽ kiếm được tiền, và khi nào họ sẽ có con. Những người sinh ra với khí trời đục thì huyết mạch đục và mạch cũng đục. Nếu đục thì hình dạng mạch không rõ ràng, mạch mạch hỗn loạn. Khi tôi chẩn đoán điều này, tôi chỉ biết rằng nó biểu thị sự nghèo khó và hèn mọn. Nếu đến một thời điểm nào đó trong ngày, người ta sẽ hối hận, đến một thời điểm nào đó mất tiền, đến một thời điểm nào đó mất vợ, đến một thời điểm nào đó mất con trai, tôi cũng có thể biết được. Cũng có trường hợp hình dạng đục nhưng mạch mạch trong. Đây được gọi là minh bạch trong Độ đục. Cũng có trường hợp tinh chất trong suốt nhưng mạch lại đục. Trường hợp này gọi là đục trong sáng. Cũng có trường hợp hình dạng không rõ ràng lắm, mạch không đục lắm, nhưng phần nổi và phần chìm đều đúng vị trí, kích thước không chênh lệch. Điều này cũng biểu thị sự ổn định, không có sự tăng giảm lớn. Các từ khác không đầy đủ, ý nghĩa cũng không đầy đủ. Học giả có thể suy luận bằng phép loại suy. "Thái độ của ông ta tương tự như của Hác Khôn. Họ cho rằng cả mạch trong suốt và mạch đục đều chấp nhận được, nhưng lập luận của họ lại rơi vào cái bẫy quá đơn giản.
Hơn nữa, các thuật ngữ "trong" và "trần" không được chính thức đưa vào chẩn đoán mạch để chỉ hai tình trạng mạch cụ thể. Cái gọi là "trong" và "trần" trong mạch Thái Tô không được mô tả nhất quán trong các văn bản khác nhau. Ví dụ, Ngô cho rằng cả mạch "trong" và mạch "trần" đều có thể được xem xét, mô tả mạch "trong" là "tròn, sạch và rõ ràng theo từng nhịp", trong khi mạch "trần" là "tản, chát và mơ hồ theo từng nhịp". Điều này hơi khác so với cách giải thích của Trương. Bành Vĩnh Quang, một chuyên gia về mạch Thái Tô, phát biểu: "Nếu tay của một người có mạch trong, tinh tế, như thể không có mạch, thì đó là âm thuần, biểu thị sự cao quý; nếu cả hai tay đều có mạch mạnh và đầy đủ, thì đó là dương thuần, biểu thị sự cao quý." Điều này có phần tương tự với mạch "trong" và mạch "trần", nhưng kết luận thì khác. Trương Lỗ thời nhà Thanh có lẽ đã nghiên cứu và tin tưởng phương pháp Thái Tô mạch ở một mức độ nào đó, và ông cũng đã đưa khái niệm mạch trong và mạch đục từ phương pháp Thái Tô mạch vào phương pháp mạch. Đây thực sự là một công trình tiên phong trong khoa học mạch. Ông nói: "Mạch trong là mạch nhẹ, trong, chậm, đều, lưu loát và linh hoạt. Nó có vẻ yếu nhưng không tinh tế. Nó không giống như mạch yếu khó bắt, mạch yếu yếu yếu ớt, mạch chậm chậm, hay mạch yếu sâu, yếu ớt. Nó là dấu hiệu của khí huyết cân bằng. Kinh điển nói: 'Người tiếp khí là người thanh'. Mạch của người bình thường trong, yếu và nhẹ, không có nguy hiểm. Ví dụ, nếu tay trái trong, yếu và nhẹ, biểu thị một trái tim cao quý và nhân hậu. Nếu mạch trong, rỗng và lưu động, biểu thị một tâm trí mạnh mẽ, quyết đoán và linh hoạt. Nếu có cảm giác nhỏ, chắc và cứng trong trạng thái trống rỗng của cảm xúc, người đó là người máy móc và thô ráp. Nếu mạch tay phải trong, rỗng và nhẹ, biểu thị sự giàu có và thoải mái. Nếu mạch trong, rỗng và lưu động, biểu thị sự giàu có và lịch sự. Nếu mạch trong, rỗng và khô khan, thiếu tinh thần, người đó, mặc dù giàu có, sẽ không hạnh phúc. Mạch trong, rỗng ở huyệt Cunkou thực sự là biểu tượng của sự xuống dốc và cũng biểu thị trí thông minh. Mạch trong, rỗng ở huyệt Chikou biểu thị trí thông minh. , và cuối cùng, có một người con trai tốt cũng là dấu hiệu của sự trường thọ. Nếu cả mạch Tồn và mạch Quan đều trong, nhưng mạch Khí Trung lại chập chờn và cứng, hoặc quá nhỏ hoặc quá lớn, thì đó là dấu hiệu của tuổi già kém may mắn và khó sinh con. Nếu Mạch trông có vẻ trong và yếu, nhưng khi ấn vào lại thấy trơn và mạnh, đó là dấu hiệu của việc mạch trong nhưng đục, bên ngoài mỏng và bên trong tham lam. Nếu một người có bệnh mà mạch trong, dù bệnh nặng cũng không có hại. Nếu mạch trong và yếu, cần phải dùng thuốc bổ để tăng cường chân nguyên. Nếu mạch tự nhiên trong và yếu, dù có nhiệt bệnh ngoại sinh mạnh, mạch cũng sẽ không mạnh, và điều này không thể coi là mạch hư, vì nó sẽ tiếp thêm lửa để tấn công bệnh. Mạch đục là mạch nặng, đục và mạnh, dâng lên ngập đầu ngón tay, nổi, chìm, trơn, chắc và mạnh. Nó không giống như mạch đục khi ấn vào thì mềm và rộng, mạch đặc khi nhấc lên thì nhỏ lại, mạch trơn chảy thì chảy nhẹ nhàng, hay mạch chặt nhưng biến đổi thất thường. Mạch đục là dấu hiệu của thể chất đục. Kinh điển nói: Ăn uống thì tâm trí đục. Mạch của người bình thường nặng, đục và mạnh, về già sẽ không thể nghe rõ. Nếu tay trái nặng và đục thì chắc chắn là dơ bẩn. Nếu tay phải nặng và đục thì có thể chỉ ra sự tầm thường. Nếu mạch Cunkou nặng và đục thì gia cảnh khiêm tốn. Nếu mạch Khí nặng và đục thì con trai họ Nhâm Mộng.
Nếu mạch nặng đục kèm theo cảm giác trơn và trơn, gia đình sẽ thịnh vượng. Nếu mạch nặng đục kèm theo cảm giác vụng về và dính, hoặc nếu mạch một bên thịnh nhưng yếu, cá nhân sẽ không có cuộc sống khỏe mạnh và cũng có thể bị chết yểu. Nếu mạch có vẻ nặng đục nhưng khi ấn vào thì mềm, đây là dấu hiệu mạch đục trong sáng, dấu hiệu bên ngoài tròn và bên trong vuông. Điều này thường đúng với những người lao động và làm việc, vì vận động làm kiệt sức cơ và xương của họ. Mạch nặng đục là không thể tránh khỏi. Ngay cả những người bình thường, cúi tay và kéo váy cũng có mạch nặng đục, điều này không phải là tự nhiên sao? Nếu mạch không nặng đục mà bị bệnh nặng hơn, cần phải điều trị khẩn cấp để trục xuất các yếu tố gây bệnh. Nếu mạch thường đục, nặng, rồi do bệnh tật mà trở nên vón cục, dính, thì đó là dấu hiệu của khí huyết ứ trệ, đờm nước bọt vón cục, không nên coi là mạch vón cục bình thường. "Ông không chỉ áp dụng phương pháp Thái sư mạch để chẩn đoán độ trong, độ đục và sức khỏe của một người, mà còn đề cập đến cả người giàu, người nghèo, người giàu, người yếu, v.v. Điều này vượt ra ngoài phạm vi y học và hoàn toàn là bản chất của mạch Thái sư. Mặc dù chưa ai trực tiếp bác bỏ mạch đục của ông, nhưng ông đã bị lãng quên hàng trăm năm. Điều này không thể không nói đến việc ông đã lựa chọn sai lầm khi giới thiệu nó. Điều này không chỉ đúng với mạch đục, mà còn đúng với việc phân tích các triệu chứng mạch. Ví dụ, ông nói: "Khi chẩn đoán mạch của người giàu và người quý tộc, chúng rất khác với mạch của người nghèo và người bình thường. Mạch của người quý tộc thường trong, rỗng và trơn, trong khi mạch của người giàu và người thường trơn và linh hoạt. Mạch của người thường đục, tắc và ứ, trong khi mạch của người nghèo thường yếu và chát, và nếu kiểm tra kỹ lưỡng, chúng thô và cứng gấp đôi bình thường. Đối với những người đã trải qua sự giàu có và quý tộc rồi trở nên bần cùng và hèn mọn, Âm Vị của họ sẽ kiệt quệ, huyết khí mất cân bằng, mạch sẽ không đều và hài hòa. Ấn lâu sẽ cảm thấy yếu. Hơn nữa, việc điều trị các triệu chứng của người giàu và người quý tộc hoàn toàn khác với việc điều trị các triệu chứng của người bần cùng và hèn mọn. Người giàu và người quý tộc luôn làm việc quá sức của tim và thận, làm tổn thương tinh và máu. Mạch của họ thường yếu, và họ luôn có những tật xấu bên ngoài và bên trong, khiến họ đổ mồ hôi và tiêu chảy nhiều. Điều quan trọng nhất là phải chăm sóc khí huyết, và điều hòa Âm Khí và dạ dày là đủ. "Mọi thứ đắng cay, lạnh lẽo làm tổn hại đến khí đều bị nghiêm cấm đối với người nghèo hèn. Họ ăn rau dại đầy bụng, thân thể bị gió rét hành hạ. Họ chưa từng được sưởi ấm, dưỡng chất bên trong lẫn bên ngoài. Cơ bắp và xương cốt của họ đã quen với sự mệt mỏi, các tạng phủ và kinh mạch đều cứng đờ. Dù có bệnh tật, lo lắng, mệt mỏi cũng không thể làm tổn thương tinh thần. Thay vào đó, họ nên tập trung vào việc bổ khí. Các loại thuốc như nhân sâm, hoàng kỳ, quế, phụ tử không phù hợp với họ. Chúng chỉ phù hợp với những người đã trải qua giàu sang rồi lại nghèo khó. Họ luôn hưởng thụ cuộc sống sung túc, không thích ăn đồ thô. Khi bị bệnh, khí của họ sẽ bị suy yếu trước. Không chỉ thuốc men khó đáp ứng, mà nhân sâm, hoàng kỳ cũng không thể hỗ trợ họ, và tình trạng suy nhược chắc chắn sẽ gia tăng." "Tuy không thể nói là hoàn toàn vô lý, nhưng ảnh hưởng của Thái Tả Mạch Phương pháp rất rõ ràng.
Từ Đại Xuân cũng chú ý đến mạch Thái Túc, quan điểm của ông khách quan và thực tế hơn. Trong cuốn "Nguồn gốc Y học" có ghi chép "Thuyết về mạch Thái sư": "Dựa vào mạch để trị bệnh, có thể xác minh và biết được sự thịnh suy của huyết khí, cũng như phong, hàn, nhiệt, ẩm của con người. Người ta nói rằng mạch Thái sư có thể dùng để dự đoán tuổi thọ, trí tuệ, ngu dốt, thiện ác của một người. Mạch là nguồn gốc của khí huyết. Nếu mạch dài và mạnh, đó là dấu hiệu của trường thọ. Nếu mạch ngắn và yếu, đó là dấu hiệu của tử vong sớm. Nếu mạch trong và mạnh, đó là dấu hiệu của trí tuệ. Nếu mạch đục và mờ, đó là dấu hiệu của ngu dốt. Điều này là hợp lý. Nếu thiện và ác đã không biết, thì thịnh và nghèo có liên quan gì đến mạch? Tuy nhiên, mạch của một người hợp với trường thọ có thể không cẩn thận với cảm lạnh, mệt mỏi hoặc bệnh tật và chết; mạch của một người hợp với tử vong sớm có thể cẩn thận chăm sóc bản thân và sống lâu, cũng có người huyết khí rất trong nhưng tâm lại vẩn đục; người thể chất rất vẩn đục nhưng tâm lại minh mẫn. Ngay cả mạch của một người có hợp với tuổi thọ, chết yểu, thông minh hay ngu ngốc cũng không thể đoán trước được, huống chi là những thứ khác. Hơn nữa, cuốn sách còn làm cho nó trở nên lố bịch hơn, tuyên bố rằng nó có thể dự đoán một chức vụ quan trọng nào đó trong một năm nào đó, sẽ thu được bao nhiêu của cải trong một năm nào đó, cha mẹ là ai và con cháu sẽ như thế nào. Điều này càng vô lý hơn. Có thể có những người trên thế giới thực hành nghệ thuật này và tuyên bố rằng nó thường chính xác. Họ chắc chắn có một kỹ thuật khác, đó là dự đoán bằng may mắn và dùng nó để tạo ra huyền thoại. Nếu tất cả đều nhìn thấy từ mạch đập, thì đó là hoàn toàn vô lý. "Có thể nói đó là một lý thuyết về hòa bình.
Các luận thuyết về mạch của Thái Túc không phải là không có giá trị; chúng có những hiểu biết sâu sắc về các khía cạnh kỹ thuật cụ thể và do đó có giá trị tham khảo đáng kể. Trong cuốn "Nghiên cứu về kỹ thuật mạch", Lý Thời Trân đã trích dẫn các luận thuyết về mạch của Trương Quách, Dương Văn Đức, Chiêm Diên Cư và Bành Dũng Quang. Tiêu chuẩn cho các mẫu mạch chậm trong cuốn "Nghiên cứu mạch Băng Hồ" của ông cũng trích dẫn lời giải thích của Trương Thái Túc về các mẫu mạch chậm: "Giống như sợi chỉ trên sợi dọc, không xoắn trên trục, phản ứng của nó nhẹ nhàng và đều đặn, và các chuyển động của nó rất đều đặn." Điều này cho thấy các luận thuyết về mạch của Thái Túc không phải là không có giá trị học thuật.
Là một phương pháp bói toán, đọc mạch Thái Cực không liên quan gì đến việc chẩn mạch. Tuy nhiên, một phần nhỏ nội dung của nó, mặc dù cực kỳ không quan trọng trong việc đọc mạch Thái Cực (hình dạng mạch), đôi khi vẫn có giá trị tham khảo trong y học, và một số bác sĩ đã áp dụng nó cho mục đích riêng của họ, điều này chắc chắn có ý nghĩa. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải duy trì sự cân bằng hợp lý; nếu nó vượt ra ngoài phạm vi chẩn đoán và khoa học, sẽ xảy ra sai sót về phương hướng và phương pháp.