Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)

Chẩn đoán TCM >> GO BACK Current location:Home >> Chẩn đoán TCM >> Main text

Nguồn gốc và sự phát triển của chẩn đoán lưỡi (I) (Cơ sở chẩn đoán)

DATE:2025-10-19 17:51:10Click:401次Font size:T|T
Những thảo luận sớm nhất về chẩn đoán lưỡi trong các văn bản y khoa có thể được tìm thấy trong "Nội Kinh". Ví dụ, "Luận về mạch yếu" trong "Những vấn đề về bệnh" có ghi: "Nếu mạch tim mạnh và dài, bệnh nhân sẽ bị cong lư

Những thảo luận sớm nhất về chẩn đoán lưỡi trong các văn bản y khoa có thể được tìm thấy trong Nội Kinh (Nội Kinh). Ví dụ, chương "Luận về các mạch yếu" trong "Vạn Vấn" có ghi: "Nếu mạch tim mạnh và dài, bệnh nhân sẽ bị lưỡi cong và không thể nói". Vì kinh Thiếu Âm Tâm của tay bắt nguồn từ tim và giao với cổ họng, nên bệnh tim có thể gây ra triệu chứng "lưỡi cong và không thể nói". Chương "Bàn về sốt" trong "Tố vấn" ghi: "Ngày đầu tiên của bệnh thương hàn, kinh Cư Dương bị ảnh hưởng. Ngày thứ năm, kinh Thiếu Âm bị ảnh hưởng. Kinh Thiếu Âm đi qua thận, thông với phổi, thông với gốc lưỡi. Điều này gây ra khô miệng, lưỡi khô và khát nước... Đến ngày thứ mười một, kinh Thiếu Âm suy yếu, hết khát nước, bệnh nhân không còn đau, lưỡi khô biến mất, hắt hơi... Gió mạnh đã hết, bệnh đã khỏi." Điều này có nghĩa là khi một người bị nhiễm lạnh, các triệu chứng bề ngoài vẫn còn, và nhiệt đã vào bên trong. Lưỡi khô là dấu hiệu của nội nhiệt. "Lưỡi khô" cho thấy nội nhiệt đã lắng xuống, dịch đã lưu thông trở lại, bệnh đã khỏi.

"Suo Wen" (Suo Wen) nói rằng, "Khi phổi nhiệt tấn công, bệnh nhân đầu tiên sẽ có cảm giác ớn lạnh, mọc tóc, sợ gió và lạnh, lưỡi vàng và sốt." Quan điểm cho rằng lưỡi vàng và sốt là bằng chứng cho thấy các triệu chứng bề ngoài chưa được giải quyết và nhiệt đã di chuyển vào bên trong. "Tố Văn" (Tố Văn) chép: "Mạch vị sâu, sưng, chát, phần ngoài dạ dày sưng to, mạch tâm nhỏ, cứng, nhanh, tất cả đều biểu thị liệt nửa người... Nếu bệnh nhân không câm, lưỡi không cử động, bệnh có thể khỏi sau ba mươi ngày. Nếu bệnh nhân ba tuổi bị câm, mức độ nghiêm trọng của bệnh và thời gian hồi phục được xác định dựa trên độ mềm dẻo của lưỡi và việc có hay không có khiếm khuyết về giọng nói. "Lăng Thư" (Lăng Thư) chép: "Nếu gốc lưỡi bị thối và sốt kéo dài, bệnh nhân sẽ chết." Điều này ám chỉ tình trạng thối lưỡi do nội nhiệt gây ra. Nếu sốt kéo dài, bệnh sẽ nặng hơn và trở nên nguy hiểm. "Lăng Thư, Chương 75 về Chân Ái của Thương, chép: "Âm khí thiếu thì nội nhiệt, dương khí thừa thì ngoại nhiệt. Nội nhiệt va chạm, như người ta mang than, sợ bông sợ lụa. Một Không thể đến gần người khác, cũng không thể đến gần chiếu. Lỗ chân lông bị tắc nghẽn, không có mồ hôi, lưỡi khô, môi trề. Nguyên nhân là do tà nhiệt rất mạnh, nhưng mồ hôi không tiết ra, khiến nhiệt không thoát ra ngoài, lưỡi khô, môi trề. "Nam Kinh, Chương 24 về những khó khăn", chép: "Khi khí ở kinh Quyết Âm chân bị cạn, gân co lại, khiến tinh hoàn và lưỡi cong... Do đó, khi lưỡi cong, tinh hoàn co lại, gân này sẽ chết trước." Nguyên nhân là do khí ở kinh Quyết Âm Can bị cạn kiệt, khiến tinh hoàn co lại, lưỡi cong.

Mặc dù Nội Kinh không đề cập cụ thể đến việc chẩn đoán bệnh lưỡi, nhưng những trích dẫn rải rác trong các chương khác nhau cho thấy các bệnh khác nhau biểu hiện khác nhau trên lưỡi. Bệnh tim có thể gây cong lưỡi và rối loạn giọng nói; nhiệt độc quá mức có thể gây khô và loét; nhiệt bề mặt lan vào bên trong có thể khiến lưỡi chuyển sang màu vàng; và can khí hư có thể gây cong lưỡi. Việc phục hồi dịch cơ thể sau khi lưỡi khô được coi là dấu hiệu phục hồi sau một cơn sốt; và mức độ nghiêm trọng và tiên lượng của bệnh có thể được suy ra từ độ mềm dẻo của lưỡi. Điều này cho thấy ngay cả vào thời điểm đó, mối liên hệ chặt chẽ giữa những thay đổi của lưỡi và bệnh tật đã được nhận thức.

Dựa trên công trình của Nội Kinh và Kinh Khó, Trương Sùng Cảnh đã phát triển thêm phương pháp chẩn đoán lưỡi. Những thảo luận về chẩn đoán lưỡi cũng được tìm thấy trong các sách về Sốt Bệnh Luận và Kim Phòng Đại Cương. Ví dụ, Điều 130 của Sốt Bệnh Luận ghi: "Nếu không có hội chứng dương do tắc nghẽn tạng phủ... nếu rêu lưỡi trơn, không nên tấn công". Điều này cho thấy rêu lưỡi trơn là dấu hiệu của nội âm hàn, và việc điều trị nên tập trung vào việc làm ấm nội tạng và phục hồi dương, thay vì sử dụng các tác nhân gây hại. Điều 137 của Sốt Bệnh Luận ghi: "Ở những bệnh nhân mắc bệnh Thái Dương, nếu ra mồ hôi nhiều và đi ngoài phân lỏng, sau đó đi ngoài phân lỏng trong năm hoặc sáu ngày, lưỡi khô và khát nước, kèm theo các cơn bốc hỏa nhẹ vào buổi tối và ban đêm, và đau cứng, đầy bụng, khó chịu từ tim xuống bụng dưới, thì Đại Tiên Hùng Cao là phương pháp điều trị chính." Nguyên nhân là do chứng bệnh Thái Dương hành kinh, tiết mồ hôi và bài xuất đờm làm tổn thương dịch cơ thể, dẫn đến lưỡi khô. Điều 168 của sách Bệnh Sốt Đại Cương ghi: "Nếu sau khi nôn mửa hoặc bài xuất đờm, bệnh nhân bị sốt thương hàn kéo dài bảy tám ngày, nhiệt bị ứ đọng bên trong, cả ngoại nhiệt lẫn nội nhiệt đều hiện diện, thường xuyên sợ gió, khát nước dữ dội, lưỡi khô, bồn chồn, muốn uống vài lít nước, thì chủ yếu là dùng Bách Hồ Giáp Nhân Sâm Đường." Lưỡi khô là biểu hiện của việc điều trị không đúng cách các triệu chứng bên ngoài, biểu hiện của nhiệt bệnh xâm nhập vào bên trong và nhiệt nội nóng dữ dội. Điều 221 của sách Bệnh Sốt Đại Cương ghi: "Đối với bệnh Dương Minh... có mủ trong lòng và lưỡi có rêu, chủ yếu là dùng Trí Tử Thi Đường." Việc sử dụng Trí Tử Thi Đường được xác định dựa trên sự hiện diện của rêu trên lưỡi. Điều 230 của sách Bệnh Sốt Đại Luận ghi: "Đối với bệnh Dương Minh, có cảm giác cứng và đầy bụng dưới sườn, nôn mửa mà không đi ngoài, lưỡi có rêu trắng, có thể dùng Tiểu Tràng Hồ Đường." Lớp rêu trắng này dùng để phân biệt bệnh nhiệt ở Bố Dương với bệnh không phải Dương Minh. "Kim Phòng Yếu Luận: Bụng trướng, Thoát vị lạnh, Thức ứ trệ, Chương 10" ghi: "Nếu bệnh nhân bị chướng bụng và đau, đó là trường hợp đầy hơi và có thể điều trị bằng thuốc nhuận tràng. Nếu lưỡi vàng và chưa được nhuận tràng, màu vàng sẽ tự nhiên biến mất sau khi nhuận tràng." Điều này xác định rêu lưỡi vàng là dấu hiệu chính của tình trạng đầy bụng bên trong và gợi ý dùng thuốc nhuận tràng. "Kim Phòng Yếu Luận: Mạch và Triệu Chứng Phong Hàn Tích Tụ ở Ngũ Tạng, Chương 11" ghi: "Nếu gan lạnh, gốc lưỡi khô." Do kinh can chạy dọc theo sau họng và nối với gốc lưỡi, nên khí lạnh ứ đọng chuyển hóa thành nhiệt, khiến gốc lưỡi bị khô. "Kim Trướng Yếu Chỉ: Mạch và Triệu Chứng Tiểu Đường, Khó Tiểu và Lậu, Chương 13" viết: "Nếu bệnh nhân khát nước, muốn uống nước, miệng lưỡi khô, thì Bách Hồ Sắc với Nhân Sâm là phương pháp điều trị chính." Điều này xác định lưỡi khô là dấu hiệu chính của nội nhiệt trong Bách Hồ Sắc. "Kim Trướng Yếu Chỉ: Mạch và Triệu Chứng Ngực Đầy, Huyết Ứ, và Huyết Ứ, Chương 16" viết: "Nếu bệnh nhân tức ngực, môi mềm, lưỡi xanh, miệng khô, nhưng muốn súc miệng thay vì nuốt nước, thì đó là dấu hiệu của huyết ứ." Điều này cho thấy lưỡi xanh là dấu hiệu của huyết ứ.

Từ những đoạn văn trên, chúng ta có thể thấy Trương Trọng Cảnh không chỉ xem xét những thay đổi ở lớp phủ lưỡi như một yếu tố để phân biệt hội chứng, mà quan trọng hơn, ông còn phân biệt giữa kết cấu lưỡi và lớp phủ lưỡi. Do đó, Trương Sĩ Vãn đã phát biểu trong "Nhập môn về Bệnh Sốt": "Thuật ngữ lớp phủ lưỡi bắt nguồn từ Trường Sa, vì nó chỉ ra tà khí bị mắc kẹt bên trong, như thể đang mang thai, và do đó nó được gọi là 'thai nhi'." Đóng góp này của Trương Trọng Cảnh chắc chắn đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển sau này của chẩn đoán lưỡi. Những hiểu biết của ông về lớp phủ lưỡi trơn biểu thị hội chứng âm, lưỡi khô biểu thị nhiệt, lưỡi vàng biểu thị hội chứng nội nhiệt, và lưỡi xanh biểu thị huyết ứ vẫn hoàn toàn chính xác cho đến ngày nay. Mặc dù những thảo luận của Trương Trọng Cảnh về các loại lớp phủ lưỡi và nội dung còn hạn chế, nhưng nó chứng tỏ rằng ông đã rút ra những hiểu biết này từ quan sát thực tế và áp dụng chẩn đoán lưỡi vào việc phân biệt và điều trị hội chứng, đôi khi thậm chí còn sử dụng nó làm cơ sở chính để chẩn đoán, đóng góp đáng kể vào sự phát triển sau này của chẩn đoán lưỡi.

Dựa trên nền tảng của Nội Kinh, Kinh Khó (Nam Kinh), Hàn Thương Luận, và Kim Phòng Nhất Luận, các thế hệ thầy thuốc sau này liên tục bổ sung và phát triển nội dung chẩn đoán lưỡi, và ứng dụng lâm sàng của nó ngày càng phổ biến. Ví dụ, Trung Tạng Kinh (do Hoa Đà biên soạn) bàn về các biểu hiện của chẩn đoán lưỡi trong các bệnh lý của năm cơ quan nội tạng: tim, gan, tỳ, phổi và thận. Ví dụ, Trung Tạng Kinh - Về Năm Sinh Tử trong Phong ghi: "Khi cả tim và tỳ đều bị đột quỵ, lưỡi trở nên cứng và không nói được". Trung Tạng Kinh - Về Gan ghi: "Lạnh ở gan gây khô ở gốc lưỡi". Trung Tạng Kinh - Về Túi Mật ghi: "Căng phồng như vũ trường gây đau dưới lưỡi". Trung Tạng Kinh - Về Tim ghi: "Mạch tim mạnh và dài, khiến lưỡi cứng và không thể nói được". "Trung Tạng Kinh Luận Thận" chép: "Thận bệnh thì miệng nóng lưỡi khô." "Trung Tạng Kinh Luận Tỳ" chép: "Tỳ bệnh thì sắc mặt vàng nhợt, lưỡi cứng, ăn không ngon." "Trung Tạng Kinh Luận Tam Đốt" chép: "Thượng đốt nóng thì trán đổ mồ hôi, thân không ra mồ hôi, ăn được nhưng khí kém, lưỡi khô miệng cháy." Về cơ bản, sách này được trích từ "Hoàng Đế Nội Kinh" và "Khó Kinh", có bổ sung thêm một số nội dung.

Vương Thúc Hòa đời Tấn đã biên soạn Mạch Kinh, chủ yếu bàn về lý thuyết chẩn mạch. Công trình này có tham khảo các sách Nội Kinh, Khó Kinh, Sốt Bệnh Luận, Kim Phòng và Trung Tạng Kinh. Ví dụ, trong Mạch Kinh, Tập 5, Biển Thước Chẩn Mạch Các Loại Phản Ngộ Yếu Chỉ, có ghi: "Mạch vị sưng to, sâu, chát, mạch vị ngoài sưng to, mạch tâm yếu, cấp bách đều biểu thị liệt cơ hoành. Có thể chữa trị mà không cần câm và lưỡi cử động." Trong Mạch Kinh, Tập 6, Triệu Chứng Kinh Tâm Thủ Thiếu Âm, có ghi: "Mạch tâm mạnh và dài biểu thị lưỡi cong, không nói được." Điều này ám chỉ nội dung chẩn lưỡi trong Nội Kinh. Trong Kinh Mạch Kinh, quyển 3, mục 1 về Can và Túi Mật, có ghi: "Mạch cứng và chát là bệnh tật và co thắt cơ. Khi khí của kinh Quyết Âm chân kiệt, cơ bắp co lại, tinh hoàn và lưỡi bị kéo." Điều này ám chỉ nội dung chẩn đoán lưỡi trong Kinh Nghiêm.

"Mạch Kinh, Tập 7, Triệu Chứng Sau Khi Đổ Mồ Hôi, Nôn Và Tống, Chương 8" ghi: "Sau khi nôn và tống phân trong bảy hoặc tám ngày, nếu sốt do thương hàn kéo dài, bệnh nhân sẽ bị nóng cả trong lẫn ngoài, thường xuyên sợ gió và khát nước dữ dội. Lưỡi khô và bồn chồn, bệnh nhân sẽ muốn uống vài lít nước. Đây là trường hợp của bài thuốc Bách Hồ." Đây là một phần về chẩn đoán lưỡi trong "Các Bệnh Sốt" của Luận. "Mạch Kinh, Tập 6, Triệu Chứng Can và Chân Quyết Âm, Chương 1" ghi: "Hàn ở gan gây ra chứng khô gốc lưỡi." Đây là một phần về chẩn đoán lưỡi trong "Kim Phòng Đại Cương". "Mạch Kinh, Tập 6, Triệu Chứng Thận và Chân Thiếu Âm, Chương 9" ghi: "Nếu mạch Thiếu Âm ở chân hoạt động và chủ trị các bệnh về thận, bệnh nhân sẽ bị nóng miệng và khô lưỡi." Đây là một phần về chẩn đoán lưỡi trong Trung Tạng Kinh. Các phần khác về chẩn đoán lưỡi bao gồm "Mạch Kinh, Tập 2, Mạch Trước và Sau Âm, Thần Môn, Khí Khấu, Khí Nơi Người Thường, Chương 2": "Nếu tay trái có mạch Âm mạnh sau huyệt Trung và huyệt Thần Môn của kinh Tồn, thì đó là kinh Thiếu Âm ở chân, và bệnh nhân sẽ bị khô lưỡi." Mạch Âm mạnh biểu thị thận Dương hoạt động quá mức, làm mất đi Thận Âm, dẫn đến lưỡi khô. "Mạch Kinh, Tập 3, Mục 2 về Tâm và Ruột" viết: "Tâm tượng trưng cho hỏa, kết hợp với ruột non tạo thành cung điện; các cơ quan của nó là yết hầu và lưỡi." Điều này cho thấy lưỡi là lỗ ngoài của tim. "Mạch Kinh, Tập 4, Mục 3 về Chẩn đoán Khí Ngạt trong Ngũ Tạng và Lục Ruột" viết: "Thịt của bệnh nhân bị tiêu, tai khô và lưỡi sưng." Điều này cho thấy lưỡi sưng là dấu hiệu của bệnh hiểm nghèo. "Mạch Kinh, quyển 4, mục 7 về Chẩn Đoán Tất Cả Bệnh Tật và Sinh Tử" ghi: "Người bệnh sốt bảy tám ngày, mạch yếu, mạch yếu, lưỡi khô, đen, sẽ tử vong." Mạch yếu biểu thị nội khí hư, lưỡi khô, đen biểu thị âm dịch suy yếu, do đó là dấu hiệu của bệnh hiểm nghèo. "Mạch Kinh, quyển 6, mục 5 về các bệnh của Tỳ và Kinh Thái Âm Chân" ghi: "Nếu kinh Thái Âm Chân bị rối loạn, gốc lưỡi sẽ bị cứng. Nếu do bệnh Tỳ gây ra, gốc lưỡi sẽ bị đau." Điều này ám chỉ những thay đổi ở lưỡi do bệnh Tỳ gây ra. "Mạch Kinh ·Quyển 7 ·Tín hiệu không thể trị bằng thanh nhiệt ·Chương 6" ghi: "Bệnh thương hàn gây sốt, đau đầu, tai vàng, rêu lưỡi trơn, cáu gắt, mạch hoạt mạnh." Bệnh thương hàn gây sốt, tai vàng, mạch hoạt mạnh, tức là hoàng đản dương. Hoàng đản dương do nhiệt ẩm gây ra, rêu lưỡi trơn là biểu hiện của thấp nhiệt. "Kinh Mạch Kinh, Tập VII, Chương 15: Triệu chứng bệnh do thủy gây ra" viết: "Mạch Tồn Khấu mạnh và lớn, nhanh và trơn. Mạnh và nhanh nghĩa là khí huyết đang tăng trưởng, còn trơn và nhanh nghĩa là khí vị đầy. Khi khí huyết kéo dài, dương khí mạnh, áp lực không thể giải tỏa. Bụng đầy thì cứng, đại tiện khó khăn, gây ra khô. Tam tiêu bị tắc nghẽn, dịch cơ thể không lưu thông. Y sĩ kích thích ra mồ hôi, nhưng dương khí không đủ, lại kích thích nhuận tràng. Khô và nóng tích tụ trong dạ dày, phân cứng, tiểu tiện không thông. Khí huyết và hệ thống phòng thủ xung đột lẫn nhau, tâm nóng sốt, mắt như lửa, mũi khô lưỡi đỏ, răng vàng cháy, nên khát nước dữ dội. Nếu bệnh nặng sau kỳ kinh nguyệt, sẽ trở thành bệnh nặng, không thể điều trị bằng châm cứu và thuốc men. Cho bệnh nhân uống nước sẽ khiến họ khô héo, dương khí hơi tán, thân thể lạnh. Lại đắp áo ấm, mồ hôi sẽ thấm vào, ngoại khí thông, bệnh sẽ khỏi. Mạch mạnh, nhanh, trơn, lưỡi khô là biểu hiện của bệnh nhiệt nặng. "Mạch kinh, Tập 7, Dấu hiệu sinh tử trong các bệnh sốt có sự tương tác giữa Âm và Dương và Thiếu âm quyết nghi (Âm dương nghịch chuyển, Âm dương kiệt quệ), Chương 18" chép: "Người thè lưỡi ra, cong lưỡi xuống sẽ chết. Sự hiện diện của dịch quanh lưỡi báo hiệu sự hồi phục sắp xảy ra." Lưỡi thè ra thường thấy khi nhiệt độc tấn công tim hoặc khi sinh lực cạn kiệt, do đó thường là một triệu chứng nghiêm trọng. Sự hiện diện của dịch quanh lưỡi báo hiệu sự trở lại của dịch âm, một dấu hiệu của sự cải thiện. "Mạch Kinh, Tập 7, Dấu hiệu Tử vong trong Bệnh Sốt, Chương 21" viết: "Khi sốt, bụng chướng, đại tiện ra máu, mạch mạnh yếu từng cơn, vã mồ hôi, thở khò khè, miệng khô lưỡi khô. Tử vong sẽ xảy ra trong vòng mười ngày." Mạch mạnh và lưỡi khô trong sốt cho thấy nhiệt độc quá mức, âm dịch suy yếu, mạch yếu từng cơn, dấu hiệu sinh khí sắp mất, do đó là triệu chứng nguy kịch. "Mạch Kinh, Tập 8, Dấu hiệu Tử vong trong Đột quỵ Trung kỳ, Chương 5" viết: "Tà ma xâm nhập nội tạng, lưỡi trở nên câm lặng." Mất ngôn ngữ trong cơn đột quỵ là một triệu chứng nghiêm trọng của đột quỵ do tà ma xâm nhập nội tạng. "Pulse Classic, Tập 8, Chương 15 về các triệu chứng mạch của bệnh phổi tắc nghẽn, áp xe phổi, ho, thở ngược, khó thở và uống nước" nêu: "Ho kèm theo nước bọt trong miệng và lưỡi trơn là dấu hiệu của cảm lạnh nông." Ho kèm theo lưỡi trơn là dấu hiệu của cảm lạnh nông, v.v.

"Kinh Mạch" của Vương Thúc Hòa chắc chắn chủ yếu bàn về mạch, nhưng trong số tất cả các nội dung liên quan đến chẩn đoán lưỡi, hầu hết đều có mạch tương ứng. Điều này khách quan đóng vai trò kết hợp hữu cơ chẩn đoán mạch và chẩn đoán lưỡi, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự kết hợp giữa chẩn đoán mạch và chẩn đoán lưỡi trong tương lai.

Đến thời Tùy và Đường, việc chẩn đoán lưỡi được phát triển hơn nữa. Trong Nguyên nhân và Triệu chứng của các loại bệnh tật, do Triệu Nguyên Phương và những người khác biên soạn, nội dung về chẩn đoán lưỡi phong phú hơn nhiều. Ví dụ, trong Nguyên nhân và Triệu chứng của các loại bệnh tật, tập 4, Triệu chứng lưỡi sưng do hư, có chép: "Tâm tỳ nóng, khí từ miệng phát ra, lưỡi sưng." Trong Nguyên nhân và Triệu chứng của các loại bệnh tật, tập 4, Triệu chứng xương bốc hơi do hư, có chép: "Da bốc hơi... lưỡi trắng." Trong Nguyên nhân và Triệu chứng của các loại bệnh tật, tập 8, Triệu chứng hàn thấp, có chép: "Triệu chứng của bệnh ảo ảnh là răng trắng bệch và lưỡi trắng." Trong Luận về Nguyên nhân và Triệu chứng của các Bệnh khác nhau, Tập 9, Triệu chứng của Sốt, có nói: "Ở những người bị bệnh phổi nhiệt, lưỡi có màu vàng, và những người có thân nhiệt và lưỡi đen sẽ chết." Trong Luận về Nguyên nhân và Triệu chứng của các Bệnh khác nhau, Tập 36, Triệu chứng của Chấn thương Đột ngột và Ứ máu, có nói: "Lưỡi Ứ máu có màu xanh và miệng khô." Trong Luận về Nguyên nhân và Triệu chứng của các Bệnh khác nhau, Tập 41, Triệu chứng của Thai nhi Cử động trong Thời kỳ Mang thai, có nói: "Thai nhi Không yên... Nếu mặt mẹ đỏ và lưỡi của bà ấy xanh, đứa trẻ sẽ chết và mẹ sẽ nói; nếu mặt mẹ xanh và lưỡi của bà ấy đỏ và có bọt ở miệng, mẹ sẽ chết và đứa trẻ sẽ sống." "Nguyên nhân và triệu chứng của các loại bệnh - Tập 7. Triệu chứng của cảm sốt" chép rằng: "Khi kinh Thiếu âm bị tổn thương, miệng sẽ nóng, lưỡi sẽ khô và khát." "Nguyên nhân và triệu chứng của các loại bệnh - Tập 7. Triệu chứng của cảm sốt" chép rằng: "Trong trường hợp tắc nghẽn nội tạng, lưỡi sẽ có lớp màng trắng và trơn. Khó điều trị. Nếu lưỡi không có lớp màng thì không nên điều trị." "Nguyên nhân và triệu chứng của các loại bệnh - Tập 8. Triệu chứng của cảm sốt" chép rằng: "Mặt đỏ, răng khô và vàng." "Nguyên nhân và triệu chứng của các loại bệnh - Tập 43. Triệu chứng của chuyển dạ khó và thai chết lưu trong bụng mẹ" chép rằng: "Nếu lưỡi của người phụ nữ có màu xanh đen và thai nhi lạnh, thì đứa trẻ đã chết." "Nguyên nhân và triệu chứng của các loại bệnh" kế thừa kinh nghiệm chẩn đoán lưỡi trước đó của Nuo Tang, đồng thời áp dụng chẩn đoán lưỡi cho phụ nữ mang thai và phán đoán sự sống chết của mẹ và thai nhi dựa trên hình dạng của lưỡi.

Thông tin về chẩn đoán lưỡi trong Thiên Kim Phương đầy đủ hơn. Ví dụ, trong Thiên Kim Phương Tập 2, Chương 6 của "Trong Tử Cung", có ghi: "Nếu sản phụ sinh khó, lưỡi xanh đỏ, người mẹ sẽ chết hoặc sống." Trong Thiên Kim Phương Tập 5, Chương 7 của "Phù và Khó Tiêu Bất Thường", có ghi: "Trẻ bị cảm lạnh trong thai sẽ khóc, đau bụng, lưỡi đen và nước bọt xanh." Trong Thiên Kim Phương Tập 15, Chương 7 của "Triệu Lỵ", có ghi: "Lưỡi vàng khô nhưng không chuyển sang màu nâu khi bị tiêu chảy, ngực đầy." Trong Thiên Kim Phương Tập 18, Chương 7 của "Cửu Trùng", có ghi: "Trường hợp sốt thương hàn, răng bị gãy và lưỡi trắng hoàn toàn." Trong Thiên Kim Phương Tập 17, Chương 7 của "Áp xe phổi", có ghi: "Lưỡi trơn, là dấu hiệu của cảm lạnh lưu hành." Trong Thiên Kim Phương quyển 20 có chép: "Lưỡi trơn, là dấu hiệu của hàn phù."





(Writer:admin)