Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
Bí tiểu khó chữa rất hiếm gặp. Bí tiểu, một tình trạng chưa được biết đến trong Y học cổ truyền Trung Quốc (TCM), là tình trạng nước tiểu ứ đọng trong bàng quang đầy mà không thể tự đào thải ra ngoài. Bí tiểu sau sinh là một loại bí tiểu do lượng nước tiểu lớn trong bàng quang không thể đào thải ra ngoài trong vòng 6 giờ sau khi sinh.
Bệnh nhân Vương, nữ, 25 tuổi, đã nhập viện tại khoa Sản của bệnh viện chúng tôi trong 2 tuần do bí tiểu sau khi sinh thường đủ tháng. Tây y đã điều trị triệu chứng cho bệnh nhân bằng cách tiêm thuốc vào huyệt đạo, xông hơi nước nóng và đặt ống thông tiểu. Đồng thời, điều trị bằng thuốc Đông y không hiệu quả và tình trạng bí tiểu vẫn tiếp diễn.
Ngày 17 tháng 8, bác sĩ Trương Hồng Châu đến khám. Lúc này, bệnh nhân có biểu hiện sắc mặt nhợt nhạt, mệt mỏi, hồi hộp, vã mồ hôi, đau lưng dưới, thỉnh thoảng đau niệu đạo, ăn uống tốt, đại tiện bình thường, lượng sản dịch ít, lưỡi nhạt rêu lưỡi trắng, mạch trầm.
Chẩn đoán: (Thận dương hư, khí chuyển hóa kém) Bí tiểu.
Nguyên lý điều trị: Bổ khí, ấm dương, chuyển hóa khí, thúc đẩy lưu thông thủy.
Đơn thuốc: Hoàng kỳ 25g, vỏ quế 4g, mã đề 20g, cẩm quỳ 12g, đương quy 10g, giả sâm 15g, đỗ trọng 12g, trúc đào 6g, đao 10g, đương quy 10g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 viên, chia làm 2 lần. Hướng dẫn bệnh nhân duy trì việc đặt ống thông tiểu đều đặn và dùng hai tay ấn vào đầu bàng quang khi đi tiểu. Ngày hôm sau rút ống thông tiểu.
Cuộc gọi theo dõi được thực hiện vào ngày 23 tháng 8. Bệnh nhân đã có thể tự đi tiểu sau khi ống thông tiểu được tháo ra và không cảm thấy khó chịu.
Lưu ý: Trong quá trình sinh nở, mất máu nhiều, dẫn đến khí ở phổi và tỳ không đủ. Phổi là "nguồn nước thượng nguồn". Phế khí hư sẽ ngăn nước chảy xuống bàng quang. Tỳ và vị là trung tâm cho sự lên xuống của khí. Tỳ khí hư ngăn cản sự lên xuống của khí đục, dẫn đến tình trạng ứ dịch và không thể lưu thông xuống bàng quang. Thận là cơ quan chứa nước, chịu trách nhiệm đóng mở và điều hòa việc tiểu tiện và đại tiện. Chúng là bộ phận bên ngoài và bên trong của bàng quang. Trong quá trình sinh nở, thận khí bị tổn thương, không thể làm ấm bàng quang, khiến bàng quang không thể chuyển hóa khí và đóng mở bất thường, dẫn đến tắc nghẽn đường tiểu. Đây chính là nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của căn bệnh này. Quế trong bài thuốc được ban tặng dương khí của trời đất, vị đậm đà, tính chất lên xuống. Đây là một vị thuốc dương trong dương, lưu thông khắp các kinh mạch và đi vào kinh can thận ở phần dưới của cơ thể. Đây là một loại thuốc bổ ấm có thể bổ sung sự thiếu hụt của cửa sinh mệnh và dẫn lửa trở về nguồn. Hạt cây hoàng kỳ, được ban cho năng lượng âm đất, có vị ngọt và tính chất hướng xuống, khiến nó trở thành một loại thảo mộc âm trong âm. Nó đi vào kinh mạch gan, thận và ruột non, thúc đẩy dòng chảy của nước và xua tan sự đục, thúc đẩy tiểu tiện đồng thời củng cố âm và lợi tinh. Hai loại thảo mộc, một ấm và một mát, hoạt động như một người hướng lên và một người hướng xuống, hỗ trợ lẫn nhau, thu hút lửa trở về nguồn của nó, làm ấm dương và thúc đẩy bài tiết nước. Điều này cho phép khí của trạng thái được thu hút vào, do đó thúc đẩy tiểu tiện. Hoàng kỳ, với đặc tính ngọt và ấm, bổ sung khí của phổi và lá lách, có thể hút nước. Hoàng kỳ nuôi dưỡng khí phổi và kích hoạt nguồn nước trên. Khi sử dụng với quế và hạt cây hoàng kỳ, nó có thể mở các phần trên và dưới của cơ thể. Nhân sâm giả (Pseudostellaria pseudoginseng) bổ khí âm, hạt bí đao và cây muồng trâu (Alisma orientalis) bổ thận, lợi tiểu, thanh nhiệt, trừ thấp. Đỗ trọng (Eucommia ulmoides) bổ thận, và cây muồng trâu (Lophatherum gracile) thanh nhiệt, trừ thấp. Khi dùng chung, các loại thảo dược này bổ trợ cho nhau.