Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)

Văn hóa Y học cổ truyền Trung Quốc >> GO BACK Current location:Home >> Văn hóa Y học cổ truyền Trung Quốc >> Main text

Cây thông trong thơ và giá trị y học của nó (Bài giảng Y học cổ truyền Trung Quố

DATE:2025-10-20 15:41:19Click:412次Font size:T|T
Hạt thông có vị ngọt, tính ấm, đi vào kinh phế và kinh đại tràng, có tác dụng làm ẩm ruột, thúc đẩy nhu động ruột, làm ẩm phổi và giảm ho. Hạt thông được dùng để điều trị ho khan do khô phổi, táo bón, chóng mặt, thấp khớp, thấp khớp. Ngoài ra, hạt thông c

Sân viện tĩnh lặng. Trăng sáng nhô lên trên bầu trời, nhô cao trên tường thành. Cây cối đung đưa rồi đổ xuống, làn gió ấm áp nhẹ nhàng thổi qua những con đường thông. Ta thích thú ngắm nhìn ánh trăng chiếu xuống từ những rặng thông, soi sáng Tạ Đình, bóng cây đan xen. Ta chậm rãi bước đi, tay cầm gậy, trong không khí trong lành, tươi sáng, nhưng cổ áo và tay áo vẫn sạch sẽ.

Cảm giác như đang ở một vùng đất xa lạ. Gió rì rào trên bờ, sóng vỗ rì rào, cá giật mình. Sương mù dâng lên giữa bầu trời mờ ảo, tôi ngờ rằng những con sếu trắng đang bay lượn và gọi nhau. Màn đêm buông xuống, đồng hồ cung điện điểm chậm. Càng ngồi lâu, sương càng thấm ướt thân cây vàng óng của tôi. Không nỡ rời đi, tôi nghe thấy tiếng đàn sheng vọng lại đâu đó.

Bài thơ "Trăng trên đỉnh thông" là một tác phẩm của Tào Tuân, một nhà thơ thời Tống. Bài thơ miêu tả cảnh đẹp của rừng thông dưới ánh trăng sáng mùa đông. Tên bài hát "Trăng trên đỉnh thông" được đặt theo câu thơ "Tôi vui mừng khi thấy trăng chiếu sáng trên đỉnh thông". Ý nghĩa ban đầu của bài hát là ca ngợi vầng trăng trên đỉnh thông.

Cây thông được coi là cây đứng đầu trong các loại cây.

Cây thông, với sự đa dạng về chủng loại và phân bố rộng rãi, sở hữu ý nghĩa văn hóa phong phú và đã khắc họa một nền văn hóa dân tộc sâu sắc. Sách "Tử Thư" của Vương An Thạch viết: "Thông là vua của muôn loài, như bậc tôn quý, nên mới có chữ "công"." Điều này thể hiện địa vị cao quý mà người xưa dành cho cây thông khi đặt tên cho chúng. Cây thông là một chủ đề phổ biến trong thơ ca Kinh Thi, thấm đẫm ý nghĩa tượng trưng phong phú. Ví dụ, trong "Tiểu Nha Tư Cảm" có câu: "Như trúc xanh tươi cao lớn, như tùng sum suê." Trong "Thương Ca Ân Vũ", câu: "Leo núi Tĩnh Sơn, thấy tùng bách xanh tươi tròn trịa."

Khổng Tử nói: "Mùa đông đến mới biết thông bách là loài cây tàn sau cùng", dùng câu "thông bách là loài cây tàn sau cùng" để biểu trưng cho sự kiên định và chính trực của người quân tử. Người xưa gọi thông, trúc, mận là "Tam hữu của mùa đông". Họa sĩ thời Tống Lâu Vũ, trong bài đề tặng hai bức tranh của Dương Bất Chi do huyện lệnh Từ Thắng Kha sưu tầm, đã viết: "Hoa mận thường được miêu tả bằng nét bút thần thánh, nhưng ai biết thông trúc còn sống động hơn thế nữa? Tất cả các loài hoa đều là bạn của chúng ta, nhưng chỉ có ba loài này là hiện hữu trong mùa đông."

Cây thông cũng là biểu tượng của tình yêu. Sau khi vợ Tô Thức qua đời, ông đã đích thân trồng 10.000 cây thông quanh mộ bà, hy vọng chúng sẽ mãi đồng hành cùng ông: "Ta thấy trước rằng năm này qua năm khác, lòng ta sẽ tan nát, vào những đêm trăng sáng, trên ngọn đồi thông thấp bé." Cây thông cũng là biểu tượng của sự trường thọ. Với tuổi thọ bất tử và khả năng héo úa qua mùa đông, cây thông là một biểu tượng phù hợp cho sự trường thọ. Người xưa cũng tin rằng ăn lá thông, hạt thông và nhựa thông có thể đạt được sự bất tử.

"Ta hỏi cậu bé dưới gốc thông, cậu bé nói: 'Sư phụ ta đi hái thảo dược. Ngài chỉ ở trên núi này, giữa mây mù, ta không biết ngài ở đâu.'" (Giả Đạo, "Tìm ẩn sĩ, không gặp được") Bài thơ này dùng cây thông để tượng trưng cho tính cách của ẩn sĩ, đồng thời minh họa rằng rừng thông là nơi tuyệt vời để hái thảo dược. Mỗi loại cây thông có những thành phần dược liệu khác nhau: mắt thông, lá thông, vỏ thông, dầu thông, hổ phách, rễ thông, hoa thông, quả thông và hạt thông. Rừng thông là kho tàng dược liệu Trung Hoa khổng lồ. Vì vậy, Lý Thời Trân nói: "Lá thông và hạt thông là vật liệu thiết yếu để làm thuốc; mắt thông và lõi thông bền chắc và trường sinh bất lão. Nhựa thông là tinh túy của dịch cơ thể cây. Nó vẫn trường sinh bất tử trong đất, nhưng theo thời gian, nhựa thông sẽ chuyển thành hổ phách, thích hợp để nhịn ăn và kéo dài tuổi thọ."

Hổ phách là một loại thuốc an thần tốt

"Ngắm nhìn những viên ngọc trai của dòng sông, ta say mê vẻ đẹp kỳ lạ của chúng. Ai có thể hiểu được linh hồn của một con hổ chết? Hái cỏ cải thật phi thường, và biến nó thành một bông hoa từ quả Phượng Cẩm cũng thật phi thường. Nó làm sáng mắt, xóa tan lớp màng mờ đục, và làm dịu tâm trí, khiến ma quỷ phải sợ hãi. Triều đại thánh thần đã đập vỡ gối và phân phát cho binh lính, làm tan máu và chữa lành mọi vết thương." (Hổ Phách, của Triệu Kim Thư, triều đại nhà Thanh) Hổ Phách, còn được gọi là Ngọc Bồi, Hổ Bà và Giang Trúc, là một chất hóa thạch hình thành từ nhựa của một cây thông cổ thụ được chôn dưới lòng đất từ lâu. Nó là một loại thuốc cổ truyền Trung Quốc thường được sử dụng để an thần. Hổ Phách có vị ngọt và tính chất trung hòa. Nó đi vào kinh mạch tim, gan và bàng quang, có tác dụng an thần, thông huyết, cầm máu, lợi tiểu, lợi niệu, cải thiện thị lực. Hổ phách được dùng để điều trị chứng hồi hộp, mất ngủ, co giật, động kinh, tiểu ra máu, ứ máu, vô kinh, đau bụng sau sinh, tích tụ khối u, đục thủy tinh thể, nhọt độc và lở loét. Sách "Minh Nhất Biệt Lục" liệt kê hổ phách là một loại dược liệu cao cấp, có tác dụng "an thần ngũ tạng, an thần, trừ tà, trừ huyết ứ, thông tiểu tiện".

"Khai quật sâu trong vỏ cây thông già, ta chiết xuất mỡ âm, ưa thích sự yên tĩnh. Tốt nhất là dùng với rượu, và dầu là thành phần thiết yếu để bôi lên ghẻ. Nó thúc đẩy tái tạo mô, tăng cường lưu thông máu, chữa nhọt độc, giảm đau, dẫn lưu mủ và độc tố. Thật là một vật dụng đáng mơ ước cho việc học tập, nhẹ nhàng gắn lên đầu bút." (Triệu Tấn Thư, đời Thanh, "Nhựa thông") Nhựa thông, còn được gọi là nhựa thông hoặc cao thông, là nhựa rắn còn lại sau khi loại bỏ dầu dễ bay hơi khỏi nhựa thông tiết ra từ cây thông qua quá trình chưng cất hoặc chiết xuất. Nó có vị đắng, ngọt và tính ấm. Nó đi vào kinh can tỳ, có tác dụng thanh phong thấp, dẫn lưu mủ và độc tố, thúc đẩy tái tạo mô và giảm đau. Nó được dùng để điều trị nhọt độc, lở loét ác tính, tràng nhạc, ghẻ, chàm, đau thấp khớp, vết thương và hoại thư. Dầu thông, một loại dầu dễ bay hơi thu được bằng cách chưng cất hoặc chiết xuất nhựa thông tiết ra từ cây thông, có tác dụng thư giãn gân và khớp, giảm sưng và giảm đau. Dầu thông có thể được sử dụng ngoài da để điều trị bong gân và sưng khớp. Dầu thông là nhựa dầu được tìm thấy trong các loại gỗ như thông Trung Quốc và thông Masson. Dầu thông có thể được sử dụng ngoài da để điều trị ghẻ lâu ngày không khỏi.

Nhựa thông có tính cay và ấm, có thể chữa bệnh thấp khớp

"Mật độ thưa thớt tiết lộ ngàn biến thiên, cao thấp cùng chung một ngọn đồi. Trong giá lạnh, người ta có thể cảm nhận được sức mạnh của mắt thông, trong tĩnh lặng, người ta có thể cảm nhận được nỗi buồn của tre." (Trương Tả, "Tuyết Các", đời Tống) Mắt thông, còn được gọi là mắt thông và lang đầu thông, là những mắt khô, dạng nốt hoặc mắt nhánh của Pinus tabulaeformis và Pinus massoniana. Chúng là một loại thảo dược chống thấp khớp thường được sử dụng trong Y học cổ truyền Trung Quốc. Vị đắng và cay, tính ấm và đi vào kinh can thận. Chúng có tác dụng xua tan phong thấp, thư giãn gân cốt và khai thông kinh lạc, thúc đẩy lưu thông máu và giảm đau. Chúng được sử dụng để điều trị viêm khớp phong hàn thấp, đau khớp do thấp khớp, tê và yếu chân, chuột rút, bệnh gút và chấn thương do té ngã. Lý Thời Trân nói: "Khớp thông là xương của cây thông. Chúng cứng và chắc, có thể sử dụng lâu dài, nên thích hợp cho các bệnh thấp khớp giữa gân và xương."

"Cây thông chịu sương giá lâu năm, rễ thường xuyên bị gió thổi. Mỗi loài có bản tính riêng, nhưng đào mận lại hướng về mùa xuân." (Từ Huyền, Đường thư, "Đi trong vườn cây"). Pinus tabulaeformis, với tính cay, tán, đắng, khô và ấm, có thể trừ thấp khớp, thông kinh lạc và giảm đau. Nó đi vào gan và thận, có tác dụng tiêu thấp khớp giữa gân và xương. Tính chất ấm và khô của nó đặc biệt thích hợp cho bệnh viêm khớp thấp khớp, đặc trưng bởi tính hàn và ẩm. Dùng riêng hoặc pha với rượu, nó có thể điều trị đau thấp khớp, đau khớp và chuột rút. Hiệu quả hơn khi kết hợp với Notopterygium wilfordii, Angelica dahurica và Xuyên Hùng. Kết hợp với quế chi, bạch chỉ, đu đủ và hoa rum, nó có thể điều trị đau thấp khớp kéo dài, đau khớp, sưng tấy và khó duỗi.

Hạt thông làm giảm ho và dưỡng ẩm cho ruột

"Hạt thông ngọt, thơm, ấm, không độc. Bổ khí, bổ cơ. Hoa thông thơm ngon, bổ tỳ, bổ tỳ, hạch thông trị teo khớp, gân cốt. Lá thông trị ẩm thấp, phong thấp, giúp tóc mọc, rễ thông bổ ngũ cốc, trừ ngũ cốc." (Lý Thời Trân, triều Minh, "Hạt thông") Hạt thông, còn gọi là thông biển, là hạt của cây thông đỏ, thường được dùng làm thuốc nhuận tràng trong y học cổ truyền Trung Quốc. Hạt thông có vị ngọt, tính ấm, đi vào kinh phế và kinh đại tràng. Có tác dụng làm ẩm ruột, giảm ho. Thường dùng để trị ho khan do phổi khô, táo bón, chóng mặt, thấp khớp, thấp khớp. Ngoài ra, hạt thông còn dưỡng ẩm cho da và nuôi dưỡng tóc. "Bản thảo cương mục" ghi chép rằng chúng "có tác dụng bổ phổi, trị ho, bổ khí huyết, nhuận tràng, giải khát, ấm bụng, trừ phong, dưỡng da, dưỡng ngũ tạng. Chúng được coi là thần dược cho những người âm hư, khô hạn."

"Ngày thong thả, thông và mưa; mùa xuân kết thúc với mái nhà tranh phủ sương. Sao lại bỏ rơi nhau, trôi dạt theo những ràng buộc trần tục?" (Bài thơ "Đưa nhà sư trở về chốn cũ" của nhà thơ Chu Bật thời nhà Tống). Quả thông trắng, còn gọi là quả thông và hạt thông trắng, là quả của cây thông trắng. Chúng có vị đắng và tính ấm, có đặc tính long đờm, giảm ho và giảm hen suyễn. Chúng được dùng để điều trị viêm phế quản mãn tính, hen suyễn, ho, khó thở và đờm nhiều. Quả thông, còn gọi là hạt thông và hạt thông, là quả của cây thông Masson, thông Trung Quốc và thông Vân Nam. Chúng có vị ngọt, đắng và tính ấm. Chúng đi vào kinh phế và đại tràng, có tác dụng xua đuổi gió, trừ ẩm, giảm ho và làm ẩm ruột. Chúng được dùng để điều trị viêm khớp mãn tính, bạch biến, ho và hen suyễn, táo bón và trĩ. Phấn thông, còn được gọi là bột thông và hoa thông, là phấn hoa khô của thông Masson và thông Trung Quốc. Phấn thông có vị ngọt, tính ấm, đi vào kinh can và kinh vị. Phấn thông có tác dụng làm se, cầm máu, làm ẩm, được dùng để điều trị chảy máu do chấn thương, chàm và chốc lở.

Cây thông cao quý, kiên cường không chỉ mang ý nghĩa văn hóa phong phú mà còn có giá trị dược liệu vô cùng to lớn. Ánh trăng phản chiếu trên rừng thông tựa như chốn bồng lai tiên cảnh, từng đợt sóng thông thoang thoảng hương thơm thuốc.





(Writer:admin)