Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)

Văn hóa Y học cổ truyền Trung Quốc >> GO BACK Current location:Home >> Văn hóa Y học cổ truyền Trung Quốc >> Main text

Bậc thầy của Qiujiang, Hoa dâm bụt (Bài giảng về Y học cổ truyền Trung Quốc)

DATE:2025-10-21 13:51:28Click:431次Font size:T|T
Hoa dâm bụt có thể dùng làm thuốc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, làm mát máu, giảm sưng, thúc đẩy tuần hoàn máu, giảm đau. Hoa dâm bụt còn có thể dùng để chữa nhọt, nhọt, bỏng, ho do phổi nhiệt, nôn ra máu, v.v.

"Sau khi hoa tàn, sắc thu lại ngập tràn rừng cây ao hồ." Hàng năm, vào thời điểm này, hoa dâm bụt lại nở rộ, những bóng râm rực rỡ soi sáng những gợn sóng trên bầu trời, nhảy múa trong làn gió thu, tô điểm thêm nét quyến rũ cho khung cảnh mùa thu trong vắt. "Hoa Kính" ca ngợi dâm bụt là "thanh khiết, tao nhã, đứng một mình giữa muôn hoa, sắc thu đẹp nhất", nhấn mạnh vị thế của nó như một trong những loài hoa và cây cối đẹp nhất mùa thu. Bạch Cư Dị thời Đường có câu: "Đừng sợ mùa thu thiếu bạn đồng hành say đắm; sen nước tàn, sen gỗ nở", ngụ ý rằng ngay khi lá sen tàn, dâm bụt sẽ đến tô điểm cho cảnh sắc mùa thu.

Điểm độc đáo của hoa dâm bụt nằm ở tập tính mọc tự nhiên trên những dòng sông mùa thu. Vẻ đẹp tự nhiên của nó hòa quyện với nước, nơi những cánh hoa xanh mướt và sắc màu rực rỡ, ánh sáng rực rỡ của hoa và sắc màu rực rỡ của nước, tạo nên một khung cảnh mùa thu ngoạn mục, làm say đắm mọi giác quan và mang đến một vẻ đẹp độc đáo, quyến rũ. Bài thơ của nhà thơ thời Tống Âu Dương Tu, "Hoa dâm bụt dại bên suối, hoa và nước hòa quyện tuyệt hảo. Ngồi một mình, ta ngắm sen tàn trong ao, cùng với những bông cúc tàn úa vì sương giá", và bài thơ của Vương An Thạch, "Vô số hoa dâm bụt bên bờ nước, sắc hồng nhuốm sương mai mà vẫn chưa đậm. Như một mỹ nhân say sưa, nàng cố gắng nâng gương, uể oải trang điểm", đều lột tả hoàn hảo vẻ đẹp duyên dáng của hoa dâm bụt ven sông.

Hoa dâm bụt (Hibiscus mutabilis) to, rực rỡ và chói lọi. Chúng đổi màu ba lần mỗi ngày: ban đầu là màu hồng hoặc trắng, sau đó dần dần chuyển sang màu đỏ thẫm, càng lúc càng rực rỡ khi nở rộ, trông giống như một người phụ nữ e lệ, hơi say với đôi má ửng hồng, một nét quyến rũ nổi bật. Do đó, có biệt danh là "Drunken Dhibicus" (Hoa dâm bụt say). Câu nói "Sáng trang như ngọc, chiều như mây hồng" đã miêu tả chính xác về hoa dâm bụt. "Sương mát và làn gió lạnh làm lộ ra sự dịu dàng; ai có thể mang mùa xuân trở lại đầu tháng Chín? Vẫn rạng rỡ sau cơn say giữa trưa, vẫn e dè trước sự quyến rũ của buổi sáng. Không muốn sống trong màu trắng nhạt nhẽo, nàng khoác lên mình bộ y phục đỏ thắm để gia nhập hàng ngũ quý tộc. Nếu người ta tin rằng hoa mẫu đơn là loài hoa quý giá nhất phương Nam, thì loài hoa này xứng đáng là một loài hoa cao quý." Bài thơ về hoa dâm bụt của nhà thơ thời nhà Nguyên Phổ Đạo Nguyên đã miêu tả sống động vẻ đẹp tinh tế và quyến rũ của hoa dâm bụt khi nở rộ, từ trắng sang đỏ thẫm. Ngoài màu đỏ, hoa dâm bụt còn nở hoa màu vàng, như trong bài thơ của Đại Phụng: "Trong những bông dâm bụt này, có một loại khác, chỉ sợ màu vàng nhạt của lớp trang điểm Đạo giáo".

Hoa dâm bụt nở rộ giữa sương giá, không bao giờ tàn úa trong giá lạnh, nên được mệnh danh là "hoa chịu sương giá". Trong số các loài hoa mùa thu, người ta ca ngợi hoa cúc, ca ngợi phẩm chất cao quý "sống sót qua sương giá, giữ được vẻ đẹp đến tận khuya". Họ cũng thích ngâm nga bài thơ về hoa dâm bụt: "Lều xanh treo bên suối, lá bàng đỏ thắm đan vào nhau, hương thơm trìu mến luôn đồng hành cùng hoa cúc". Chẳng trách hoa dâm bụt được đánh giá cao hơn hoa cúc trong thơ ca. Ví dụ, Lưu Kiến, một nhà thơ thời Đường, đã viết trong bài thơ về hoa dâm bụt: "Màu nhạt của sen khiến nó xứng đáng được trồng, còn hương thơm nồng nàn của hoa cúc khiến nó e lệ". Chính vì vậy, người bình dân coi hoa dâm bụt là “quý ông chờ thời”, không oán trách gió đông, không tranh giành mùa xuân, như Dương Vạn Lịch thời Tống đã nói: “Gió vàng đẫm sương mai, thích hợp với bờ sông ngọc giá lạnh. Chớ bận tâm hoa nở muộn, hoa không tranh giành mùa xuân”; người yêu hoa ca ngợi hoa dâm bụt là “phù thủy” hồi xuân trong sương giá, tin rằng hoa dâm bụt “gọi lại ánh sáng xuân thu”, gọi là “chủ nhân của dòng sông mùa thu”. Chẳng trách người ta than thở: “Nếu hoa dâm bụt chiếm vị trí hàng đầu mùa xuân, thì mẫu đơn chưa chắc đã là hoa thượng hạng”; người có chí lớn lại ca ngợi tinh thần bất khuất, không chịu kết hôn với gió đông, dám đương đầu với sương giá và giá lạnh. Trong bài thơ "Hoa dâm bụt trước cửa sổ" của Phạm Thành Đạt thời Tống có viết: "Hoa cô đơn cố gắng xua tan cái lạnh, lòng như thương khách. Hơn nữa, nó còn nương tựa vào cô gái xanh biếc, không buồn nhìn hoa đỏ, không oán hận hoa xanh."

Hoa dâm bụt, không sợ sương lạnh và sương giá dai dẳng, không hề buồn bã hay oán giận, một cảm xúc được khắc họa sống động trong các tác phẩm thơ ca. Nhà thơ Tô Đông Pha thời Tống thậm chí còn ca ngợi loài hoa này: "Ngàn cây rực rỡ sắc vàng, chỉ riêng dâm bụt nở rộ." "Ai còn thương tiếc vẻ đẹp chống chọi sương giá của dâm bụt sau cái lạnh mùa thu?" Vẻ đẹp phi thường này làm sao không gợi lên những mộng tưởng bất tận?

Hoa dâm bụt có nguồn gốc từ vùng tây nam đất nước tôi, đặc biệt là ở Thành Đô, Tứ Xuyên. Tương truyền rằng vào thời Ngũ Đại Thập Quốc, Hoàng đế Mạnh Xương của Hậu Thục, một người thực sự yêu thích hoa dâm bụt, đã ra lệnh trồng loài hoa này khắp thành phố. Khi gió thu đến, Thành Đô rực rỡ sắc hoa dâm bụt, được mệnh danh là "Tấn Thành" (Thành phố Gấm). Hồ Nam cũng có lịch sử trồng dâm bụt lâu đời. Vào thời nhà Đường, Lưu Tông Nguyên đã hát về hoa dâm bụt: "Bờ tây sông Tương tràn ngập hoa tươi, mùa thu đến mang theo gió sương", miêu tả cảnh tượng hùng vĩ. Cuối đời nhà Đường, Đàm Vĩnh Chí đã sáng tác ra câu thơ: "Gió thu thổi qua vùng đất dâm bụt". Mao Trạch Đông từng viết: "Tôi khao khát mơ về miền đất rộng lớn, vùng đất dâm bụt ngập tràn ánh sáng ban mai". Hoa dâm bụt ở đây ám chỉ quê hương Hồ Nam của ông. Ngày nay, dâm bụt đã trở thành một loại cây cảnh sân vườn phổ biến, thích hợp trồng dưới đất, sát tường sân, góc nhà, ven suối, hoặc trồng trong chậu ở nhà hoặc ban công. Vào mùa hoa nở, những bông hoa rực rỡ khoe sắc, rực rỡ hơn cả vẻ đẹp của mùa xuân, mang đến cảm giác bình yên, tĩnh lặng.

Hoa dâm bụt được dùng làm thuốc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, làm mát máu, giảm sưng, thúc đẩy tuần hoàn máu và giảm đau. Chúng được dùng để điều trị nhọt, nhọt, bỏng, ho do nhiệt phổi và nôn ra máu. Sách Dược liệu Đại cương ghi rằng dâm bụt "điều trị tất cả các loại nhọt, loét và vết loét ác tính, giảm sưng, dẫn lưu mủ và giảm đau". Sách Dược liệu Nam Vân Nam cũng ghi rằng dâm bụt "giảm ho và làm dịu các vết loét độc". Hoa dâm bụt cũng có thể ăn được. Người xưa thường nấu đậu phụ với hoa dâm bụt. Màu đỏ trắng tương phản, hương thơm nồng nàn, gợi nhớ đến ánh sáng của một ngày tuyết rơi, nên còn được gọi một cách hoa mỹ là "Súp Tuyết Cơ".





(Writer:admin)