Đường dây nóng khách hàng:+8618865946130(Whatsapp)
Trà Phổ Nhĩ, được sản xuất tại vùng Phổ Nhĩ, Vân Nam, có vị đắng chát, hương thơm nồng ấm. Trà có tác dụng thanh nhiệt, giải độc. Đây là một loại trà tuyệt vời để làm sạch dạ dày, thúc đẩy sản xuất dịch, loại bỏ thức ăn và đờm, trong đó trà xanh là hiệu quả nhất. Vương Thổ Hùng thời nhà Thanh đã viết trong cuốn "Tùy Tây túc chế độ ăn": "Trà Phổ Nhĩ mạnh mẽ và hiệu quả, tốt cho việc nôn mửa, long đờm và tiêu hóa thịt. Nó có thể chữa khỏi các triệu chứng ban đầu như nóng bức mùa hè, vàng vọt, đau bụng, tả và kiết lỵ." Triệu Tuyết Mẫn thời nhà Thanh đã viết trong cuốn "Phụ bản thảo cương mục": "Trà Phổ Nhĩ, với vị đắng chát, có thể giải độc cho mỡ, trâu bò và dê, nhưng không nên dùng cho người thể trạng yếu." Vị đắng của trà có thể tiêu đờm, hạ khí và thúc đẩy nhu động ruột. Bột trà Phổ Nhĩ, đen như sơn, là loại trà tốt nhất để giải rượu, trà xanh thậm chí còn tốt hơn. Nó giúp tiêu hóa, tống đờm, làm sạch dạ dày, thúc đẩy sản xuất dịch, và đặc biệt hiệu quả. Ngô Đại Đông thời nhà Thanh đã viết trong cuốn "Vân Nam Văn Kiến Lục" rằng trà Đoàn, được sản xuất tại Tư Mao, huyện Phổ Nhĩ, đặc biệt có lợi cho việc tiêu hóa thức ăn, điều hòa khí huyết, giải ứ trệ, và xua tan phong hàn.
Theo "Phụ lục của Bản thảo Cương mục Trà Vũ Di", trà Vũ Di, có nguồn gốc từ Trùng An, Phúc Kiến, có màu sẫm, vị chua. Trà này rất tốt cho tiêu hóa, giải khí, bổ tỳ, giải rượu. Trong khi các loại trà khác có tính hàn, thường khiến dạ dày yếu dễ bỏ uống, trà Vũ Di có tính ấm, không gây hại cho dạ dày, thích hợp cho những người kiêng trà.
Măng tím Cổ Trúc "Phụ lục của Bản thảo cương mục" ghi: Măng tím Cổ Trúc có nguồn gốc từ Trường Hưng, Chiết Giang. Vị ngọt, mùi thơm, tính bình, có tác dụng tiêu đờm, thông phổi, giảm táo bón, an thần.
Trà Ngọc Tiền sản xuất tại Hàng Châu, tính hàn, ôn, dùng để chữa phong hàn không ra mồ hôi, sốt rét tam âm, bán manh, phong đàm, ợ hơi chướng bụng, kiết lỵ ngũ sắc, kiết lỵ mãn tính, động kinh, động kinh, lở loét giang mai.
Trà rêu thông được sản xuất tại Tây Ninh, tỉnh An Huy. Theo "Phụ bản thảo cương mục", trà rêu thông có thể trị táo bón sau khi ốm, các vết loét dai dẳng không lành, động kinh, phù thũng, đầy hơi, vàng da, các loại đau đầu và sốt, đồng thời có tác dụng thanh nhiệt, trừ tà, tiêu đờm.
Trà tuyết được trồng ở huyện Vĩnh Sơn, tỉnh Vân Nam. Trà có màu trắng, vị ngọt, tính ấm, có tác dụng chữa cảm mạo. Theo "Phụ bản thảo cương mục", trà tuyết có tác dụng chữa đau dạ dày và kiết lỵ.
Trà Vân Chi được trồng ở huyện Mạnh Âm, tỉnh Sơn Đông, có tính hàn. Theo "Phụ bản thảo cương mục", trà có tác dụng chữa các bệnh về dạ dày, nhiệt, tính hàn có thể tiêu trừ ứ trệ.
Trà Bảo Hồng được sản xuất tại Y Lương, Vân Nam. Sau khi bảo quản hai năm, có thể pha và dùng để thanh nhiệt, hạ sốt.
Trà Thủy Sa Liên được sản xuất tại Đài Loan. Nó có màu xanh lục như địa y. Theo "Phụ lục của Bản thảo cương mục", loại trà này có tính hàn, hiệu quả nhất trong việc điều trị sốt và thậm chí có thể gây mụn trứng cá.
Trà đen được sản xuất tại Đài Loan. Theo "Phụ lục của Bản thảo cương mục", trà đen có thể được sử dụng để điều trị chứng chướng bụng, khó chịu và trầm cảm.
Trà trắng Meiyan được sản xuất tại huyện Vĩnh Đài, tỉnh Phúc Kiến. Theo "Sử ký huyện Vĩnh Đài", "Mây Yến, cách huyện 40 dặm về phía đông, có một ngôi chùa tên là Mi Yến. Trụ trì nói: "Trên phiến đá phía sau chùa có mấy cây trà. Lá trà trắng tinh, phơi khô hơi ngả vàng. Ngâm nước sôi, màu trong như nước, vị thanh mát, thơm ngon. Trà còn có tác dụng chữa đầy bụng, đậu mùa và sốt ở trẻ em."
Trà tóc trắng Lạc Xương được sản xuất tại Lạc Xương, Quảng Đông. Theo "Quảng Đông Kiến Văn" của Phạm Thụy An năm 1777, Lạc Xương có "trà tóc", tóc trắng nhiều, vị hơi đắng, có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa, giải độc, giải nhiệt.
Bánh trà Vân Vũ được sản xuất tại huyện Vân Phù, tỉnh Quảng Đông. Theo "Quảng Đông Đại Sử Bản Thảo" năm 1935, "Bánh trà Vân Vũ, đun sôi một miếng trong nước rồi uống. Trà có màu đỏ tươi như máu, vị ngọt mát. Có thể giải nhiệt mùa hè, giải khát và tăng tiết nước bọt. Nếu bị nhiễm độc núi, uống loại trà này sẽ giúp giảm bớt. Đây quả thực là một loại cao lương mỹ vị hiếm có."
Trà mây và trà ngọt Phúc Sơn được sản xuất tại Phúc Sơn, Quảng Đông. Theo "Phúc Sơn Tân Thư" năm 1842, "Trà mây có thể khử mùi tanh, dầu mỡ, xua tan phiền muộn. Trà ngọt là một loại trà khác có tác dụng thanh nhiệt, trừ ứ, quả thực có tác dụng thần kỳ."
Trà Thanh Nguyên được sản xuất tại huyện Thanh Nguyên, tỉnh Quảng Đông. Theo Biên niên sử huyện Thanh Nguyên năm 1935, loại trà này "mọc trong hốc đá, có tính mát, rất hiệu quả trong việc chữa sốt cao và ho ra máu".
Trà Kudeng được sản xuất tại Long Châu, Vinh Hiền, Quý Bình và các huyện khác ở Quảng Tây. Theo "Bản thảo Quảng Tây Đại sử" năm 1949, "Trà Kudeng là loại trà búp non được hái trước Tết Thanh Minh và phơi khô. Khi pha có vị đắng, để lâu sẽ ngọt. Tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc vào mùa hè. Khi khát, ngậm một lá trà vào miệng, dịch trong cơ thể sẽ chảy ra ngoài. Trà còn có tác dụng long đờm, bổ dạ dày. Đối với những người mới bị kiết lỵ, uống nước sắc trà sẽ có tác dụng thần kỳ."
Trà Dung Mai được sản xuất tại Dangyang, Hồ Bắc. Lý Bạch, một nhà thơ vĩ đại thời Đường, từng viết một bài thơ năm chữ có tựa đề "Trả ơn trà xương rồng Ngọc Tuyền của Trung Phủ sư tổ". Trong lời tựa của bài thơ, ông đã ca ngợi công dụng thần kỳ đặc biệt của trà xương rồng một cách khoa trương: "Cây trà mọc khắp nơi, cành lá như ngọc thạch. Chỉ có Ngọc Tuyền Chân Công mới thường hái và uống. Ông đã hơn 80 tuổi, nước da trắng như hoa đào. Loại trà này thơm, mịn màng và dịu nhẹ, khác hẳn với các loại trà khác, có thể giúp người ta trẻ hóa, kéo dài tuổi thọ."
Nói về việc uống trà và trường thọ, sách Nam Phương Tân Thư của Tiền Hi Bạch ghi lại câu chuyện về một vị hòa thượng trường thọ nhờ uống trà. Sách kể về một vị hòa thượng, vào năm Đại Trung thứ ba đời Đường Huyền Tông, được đưa đến Đông Đô. Ngài đã hơn 130 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Biết được chuyện này, Hoàng đế Huyền Tông hỏi thăm về vị thuốc mà ngài đã uống. Hòa thượng đáp: "Tuổi trẻ khiêm tốn, không biết gì về thuốc thang. Tôi chỉ thích trà. Đi đâu cũng chỉ xin trà, uống trăm bát không biết chán." Vì vậy, Hoàng đế Huyền Tông ban cho hòa thượng 50 cân trà và truyền cho ngài ở tại chùa Bảo Thọ. Quả thực, nhiều thánh địa Phật giáo và các ngôi chùa nổi tiếng trên núi ở phía nam sông Dương Tử của đất nước tôi đều trồng trà. Các hòa thượng tự hái và pha trà, uống trà để tụng kinh và tu dưỡng đạo đức. Vô số hòa thượng đã đạt được trường thọ như vậy, và tuổi thọ của họ có liên quan mật thiết đến việc uống trà lâu dài.
Sách "Bản thảo cương mục" của nhà Đường đã tóm tắt đánh giá: "Thuốc nào cũng là thuốc chữa bệnh, trà là thuốc chữa bách bệnh." Sách "Uống trà dưỡng sinh" của Thiền sư Eisai người Nhật cũng viết: "Trà là thần dược bảo vệ sức khỏe, là phương pháp kỳ diệu kéo dài tuổi thọ. Núi sinh ra trà thì đất sẽ linh. Người uống trà thì sống lâu."
Điều này đúng ở Trung Quốc và Nhật Bản thời cổ đại, và cũng đúng ở các quốc gia hiện đại khác. Các cuộc khảo sát xã hội sâu rộng đã xác nhận rằng hầu hết những người sống lâu đều thích uống trà.
Vương quốc Anh là một quốc gia có thói quen uống trà khá phổ biến. Ngay cả ở một thành phố công nghiệp cũ như London, nơi môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, vẫn có rất nhiều người sống thọ. Một cuộc khảo sát trên 665 người trên 100 tuổi cho thấy hầu hết họ đều là những người yêu thích trà, với mức tiêu thụ trà trung bình hàng năm là 4-5 kg. Nghiên cứu khoa học hiện đại đã khẳng định rằng trà rất giàu các thành phần chống lão hóa, bao gồm hàm lượng cao catechin, polyphenol trong trà, vitamin E và vitamin C. Do đó, các nhà khoa học đều nhất trí rằng trà là một thức uống chống lão hóa cực kỳ hiệu quả. Không có gì ngạc nhiên khi ông Keiichi Fukushima của Hội nghị Trà Shizuoka tại Nhật Bản tuyên bố: "Trà là thần dược trường sinh bất lão".